tag:blogger.com,1999:blog-16324774282551904362024-03-13T05:58:47.785-07:00DU LỊCH ĐÀ NẴNGAnonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comBlogger73125tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-13319683684513735762014-09-10T08:48:00.002-07:002014-09-11T00:16:41.118-07:00XÀ LÁCH XOONG<div class="itemIntroText" style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin: 0px; padding: 0px;">
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Chẳng biết từ bao giờ, loài rau xà lách xoong (có nơi còn gọi rau liệt) ở <a href="http://quangtri360.com/van-hoa.html" style="border: 0px; color: #666666; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;">Quảng Trị quê tôi</a> đã nức tiếng ở miền Trung và còn vươn xa hơn tới nhiều nước trên thế giới.</span><br />
<div style="text-align: center;">
<span style="border: 0px; color: #666666; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;"><a class="modal" href="http://quangtri360.com/media/k2/items/cache/f4b6dca0e2911082f0eb6e1df1a0e11d_XL.jpg" rel="{handler: 'image'}" style="border: 0px; color: #666666; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;" title="Click to preview image"><img alt="Rau Xà Lách Xong" src="http://quangtri360.com/media/k2/items/cache/f4b6dca0e2911082f0eb6e1df1a0e11d_L.jpg" style="border: 1px solid rgb(204, 204, 204); height: auto; margin: 0px; padding: 8px; width: 600px;" /></a></span><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"> </span></div>
<div style="text-align: center;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><br /></span></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;">Nói về loài rau xà lách xoong này, người ta từng ví nó là một loài thực vật chỉ sống phù hợp với môi trường nước chảy. Còn có người lãng mạn và “hào phóng” gán cho loài này một cái tên nữa là: rau trên đá.</span></div>
</div>
</div>
<div class="itemFullText" style="background-color: white; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">
<div style="border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Ngày còn thơ, sau khi đưa trâu về chuồng, lũ trẻ chúng tôi thường lao mình xuống dòng suối nằm trong <a href="http://quangtri360.com/du-lich-quang-tri/gieng-co-gio-an.html" style="border: 0px; color: #666666; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;">hệ thống giếng cổ của Gio An</a>, Gio Linh để tắm. Con suối trong lành, nước mát vào mùa hè, ấm vào mùa đông có từ thời nào thì chẳng ai còn nhớ, chỉ biết bên cạnh con suối này là những ruộng rau Hảo Sơn quê tôi. Mùa hè, mẹ tôi thường nấu canh me chua ăn để “giải nhiệt” cái nắng nóng và gió Lào nhưng cứ cách ngày là nhất định có món rau xà lách xoong xào tỏi hoặc luộc chấm nước ruốc <a href="http://quangtri360.com/du-lich-quang-tri/bai-bien-cua-viet.html" style="border: 0px; color: #666666; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;">Cửa Việt</a>.</span></span></div>
<div style="border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Hiện nay hệ thống giếng cổ này đã xếp hạng di tích quốc gia, hàng ngày có nhiều khách du lịch tới tham quan. Giếng bắt nguồn từ mạch nước ngầm của núi đá, có một hệ thống mương dẫn thuỷ từ mạch nước ngầm này tới một cái giếng để tích nước, sau đó từ giếng này có nhiều mương dẫn nước ra ruộng đồng. Dọc theo các mương nước từ vách núi đến ruộng đồng cơ man là đá cuội, hai bên mép mương xanh mướt những nương rau xà lách nằm trộn lẫn trùm mình trong những hòn đá cuội.</span></span></div>
<div style="border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Rau xà lách còn được người dân cấy trồng ở những thửa ruộng bậc thang, ruộng này vô vàn là đá cuội, đá trộn lẫn trong đất và nước từ giếng dẫn xuống chảy tràn qua cho đến thửa ruộng thấp nhất. Loài rau này sống phù hợp với dòng nước chảy là vậy. Nước chảy quanh năm kể cả mùa nắng hạn nên rau xà lách xoong quanh năm đều phát triển tốt và người dân quê tôi có thu nhập đều đều từ rau. Cứ sau 20 ngày là thu hoạch một lần, mỗi m2 ruộng có trên 20 bó rau với giá bán ở chợ là 3.000 đồng một bó (giá năm 2011).</span></span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px;">
</div>
<div style="color: #333333; line-height: 18px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Rau xà lách xoong Hảo Sơn đã nổi tiếng từ lâu. Thời phong kiến người ta cung tiến vua đặc sản này và được vua khen. Người Pháp khi cai quản</span><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"> </span><a href="http://quangtri360.com/du-lich-quang-tri/nha-tu-lao-bao-dia-nguc-tran-gian.html" style="border: 0px; color: #666666; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;">nhà tù Lao Bảo</a><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"> </span><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">vào đầu thế kỷ 19 đã “ghiền” loài rau này nên cho các tù nhân gánh nước ở sông Sê Pôn lên rồi cho chảy ở một con mương để tiện cho loài rau này phát triển.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><span style="color: #333333; line-height: 18px;"><br /></span></span></div>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">
<span style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="color: #333333; line-height: 18px; margin-left: auto; margin-right: auto;"><img alt="Xà Lách Xoong trộn Thịt Bò - Quangtri360.com" border="0" src="http://quangtri360.com/images/dacsan_quangtri/xa-lach-tron.jpg" style="border: 0px; display: block; margin: 0px auto; padding: 0px; text-align: justify;" /></span></span></span><br />
<div style="text-align: justify;">
<em style="border: 0px; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 18px; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">Xà Lách Xong trộn Thịt Bò</strong></em><br />
<span style="color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 18px;">Ngày nay, khi nhiều người than vãn về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm của các loài rau, người ta hướng đến loài rau sạch thì rau xà lách xoong Hảo Sơn như đã đủ tiêu chuẩn để chọn lựa. Bởi nước suối trong sạch chảy từ vách núi tắm tưới cho loài rau này quanh năm, ngoài ra thuốc trừ sâu hay phân bón sẽ không phù hợp với loài rau này.</span></div>
<div style="border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px;">
<span style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><img alt="" border="0" src="http://quangtri360.com/images/dacsan_quangtri/thit-bo-xa-lach-xong.JPG" style="border: 0px; display: block; margin: 0px auto; padding: 0px; text-align: justify;" /></span></span></div>
<div style="border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Cách chế biến món ăn có rau xà lách xoong cũng khá đơn giản. Một bó rau có thể nấu canh với tôm tươi, luộc chấm với ruốc, làm rau sống hay đem xào qua với thịt bò. Riêng món rau xào thịt bò phải đợi khi thịt bò đã chín và thấm gia vị rồi tắt lửa sau đó mới bỏ rau vào, trộn đều làm như vậy ngọn rau chỉ nửa sống nửa chín, ăn rất giòn; ngoài ra nếu nấu loại rau này ở nhiệt độ cao thì sẽ mất đi vitamin.</span></span></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 18px;">Yên Mã Sơn</span></div>
<span style="color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 18px;">
</span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comQuảng Trị, Việt Nam16.7943472 106.9634089999999615.8211902 105.67251549999996 17.7675042 108.25430249999995tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-26396097030415400972014-09-10T08:42:00.001-07:002014-09-12T01:24:20.018-07:00Thịt Trâu Lá Trơng - Lá Trơơng<div class="itemIntroText" style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><a href="http://quangtri360.com/am-thuc/dac-san-quang-tri.html" style="border: 0px; color: #666666; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;">Đặc sản Quảng Trị</a>, Thịt trâu lá trơng. Vị ngọt của Thịt Trâu kết hợp với vị cay và mùi thơm đặc trưng của <a href="http://quangtri360.com/cam-nang-du-lich-quang-tri/la-trong.html" style="border: 0px; color: #666666; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;" title="Lá Trơng">Lá Trơng</a>(Lá Trơơng) tạo nên một hương vị rất hấp dẫn đặc biệt khó quên những ai đã một lần thưởng thức. Nếu đã đến Quảng Trị bạn không nên bỏ qua món Thịt Trâu Lá Trơơng một món ăn độc đáo ở vùng đất nắng gió này.</span></div>
</div>
</div>
<div class="itemFullText" style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">Thịt Trâu</strong> là món ăn ngon đầy bổ dưỡng và ở mỗi miền có những cách chế biến khác nhau thành những món ngon. Thịt Trâu vị ngọt, có tác dụng bổ khí huyết, mạnh gân cốt ... Thịt Trâu có tác dụng chữa bệnh rất hữu ích có thể chữa được chứng phong thấp sưng tê; chứng đau lưng; phù chân. Về mặt sức khoẻ thịt Trâu tốt hơn thịt Bò.</span></div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px; text-align: center;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; color: #333333; line-height: 18px; margin-left: auto; margin-right: auto;"><img alt="" src="http://quangtri360.com/images/dacsan_quangtri/thit_trau/Quangtri360-trau-nuong-la-troong.jpg" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; border: 1px solid rgb(204, 204, 204); display: block; margin: 0px auto; padding: 5px; text-align: justify;" /></span></span><br />
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="color: #333333; line-height: 18px;"><br /></span></span></div>
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin: 0px; padding: 0px;"></span></span><br />
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin: 0px; padding: 0px;"><em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">thịt Trâu nướng ăn kèm với lá Trơng rất tuyệt</strong></em></span></span></div>
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin: 0px; padding: 0px;">
</span></span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;">Thịt Trâu được chế biến thành nhiều món khác nhau nhưng món Thịt Trâu Lá Trơng ở Quảng Trị thì rất chi đặc biệt.</span></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;">Món này được chế biến từ loại thịt Trâu non được nhập từ Lào, Trâu non nên thịt thường mềm, ngọt, không dai và được chế biến theo các kiểu chính như: Nướng, Hấp, Xào.. mỗi món có một hương vị độc đáo riêng. Đặc biệt điều làm nên cái độc đáo và sự khác biệt chính là sự kết hợp giữa Thịt Trâu và <a href="http://quangtri360.com/cam-nang-du-lich-quang-tri/la-trong.html" style="border: 0px; color: #666666; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;" title="lá trơng">Lá Trơng (Lá Trơng)</a>, một loại cây lá gai thường mọc hoang ở vùng rừng núi Quảng Trị, <a href="http://quangtri360.com/cam-nang-du-lich-quang-tri/la-trong.html" style="border: 0px; color: #666666; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;">Lá Trơng</a> non có mùi thơm, cay rất đặc trưng. Khi ăn vị ngọt của thịt Trâu hòa quyện cùng vị cay và mùi thơm của lá Trơng tạo nên một hương vị đặc trưng khó quên làm mê mẩn thực khách thưởng thức.</span></div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px; text-align: center;">
<div style="color: #333333; line-height: 18px; text-align: justify;">
<div style="text-align: center;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><img alt="" src="http://quangtri360.com/images/hinh-anh/Quangtri360-la-trong-2.jpg" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; border: 1px solid rgb(204, 204, 204); margin: 0px; padding: 5px;" /></span></div>
</div>
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"></span><br />
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="color: #333333; font-style: italic; font-weight: bold; line-height: 18px;"><br /></span></span></div>
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;">
<em style="border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin: 0px; padding: 0px;"><div style="text-align: justify;">
<em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">Lá Trơng non cùng với rau Cải</span></strong></em></div>
</em></span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;">Ở Quảng Trị <strong style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">Thịt Trâu Lá Trơng</strong> cũng được chế biến thành nhiều món song có 2 món chính:</span></div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;">Đầu tiên là món nướng: Thịt Trâu xắt thành miếng vừa, tẩm gia vị ướp đợi cho thấm thịt xong dùng vỉ sắt trải lá lốt đều 2 mặt. Xếp thịt Trâu vào vĩ kẹp lại và nướng trên bếp than hồng cho tới khi lá lốt cháy lớp vỏ bên ngoài, thịt chuyển màu nâu, mỡ chảy ra phát tiếng xèo xèo, tanh tách. Thịt chín thơm phức đem ra thái thành lát mỏng, bày ra đĩa cùng với một số rau cải, lá Trơng (Lá Trơơng), tiêu ớt xanh. Những thớ thịt chín mềm, ửng hồng bên trong và một màu nâu vàng bao phủ bề mặt thơm phưng phức. Thưởng thức trâu nướng kèm theo Lá Trơơng và nước tương pha ớt thật ngon khó tả.</span></div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px;">
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">Món Thịt Trâu xào Lá Trơng</strong>: Thịt Trâu được thái mỏng ngang thớ, ướp gia vị tiêu ớt tỏi và một chút dầu ăn. Làm nóng dầu rồi phi thơm tỏi, cho thịt trâu vào xào chín tái rồi xúc để riêng, cho thêm chút dầu ăn rồi tiếp tục cho hành tây vào xào, hành tây chín tái thì cho thịt Trâu và lá Trơng vào đảo tiếp chừng 2 phút nữa là được. <a href="http://quangtri360.com/cam-nang-du-lich-quang-tri/la-trong.html" style="border: 0px; color: #666666; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;">Lá Trơng</a> (Lá Trơơng) có vị cay nhẹ và mùi thơm có tính ấm, chống hàn nên ăn vào những ngày mưa lạnh sẽ rất tốt, nhất là với những người hay bị lạnh hoặc người già hay bị đau khớp. Vị cay nhẹ của lá Trơng, hăng hăng của hành hòa quyện với cái ngọt của thịt Trâu non khiến món ăn trở nên hấp dẫn và vô cùng thơm ngon.</span></div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px; text-align: center;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; color: #333333; line-height: 18px; margin-left: auto; margin-right: auto;"><img alt="" src="http://quangtri360.com/images/hinh-anh/Quangtri360-la-trong.jpg" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; border: 1px solid rgb(204, 204, 204); display: block; margin: 0px auto; padding: 5px; text-align: justify;" /></span></span><br />
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="color: #333333; line-height: 18px;"><br /></span></span></div>
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin: 0px; padding: 0px;"></span></span><br />
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin: 0px; padding: 0px;"><em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">Lá Trơng (Trơơng)</strong></em></span></span></div>
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin: 0px; padding: 0px;">
</span></span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin-bottom: 15px; margin-top: 15px; padding: 0px;">
<span style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;"><img alt="Thịt Trâu xào Lá Trơng" src="http://quangtri360.com/images/dacsan_quangtri/thit_trau/Quangtri360-thit-trau-xao-la-lot.jpg" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial; background-repeat: initial; background-size: initial; border: 1px solid rgb(204, 204, 204); display: block; margin: 0px auto; padding: 5px; text-align: justify;" /></span></span></span><br />
<div style="text-align: justify;">
<span style="border: 0px; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; margin: 0px; padding: 0px;">Thịt Trâu Lá Trương là một trong những <a href="http://quangtri360.com/am-thuc/dac-san-quang-tri.html" style="border: 0px; color: #666666; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;" title="đặc sản quảng trị">đặc sản Quảng Trị</a> ngon và nổi tiếng, nếu đã đến đây bằng mọi giá bạn phải thưởng thức món này không thì coi như bạn đã bỏ lỡ cơ hội thưởng thức một đặc sản nổi tiếng mà không phải nơi cũng có.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><strong style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">Tác giả bài viết:</strong> Văn Phong</span></div>
</div>
</div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comQuảng Trị, Việt Nam16.7943472 106.9634089999999615.8211902 105.67251549999996 17.7675042 108.25430249999995tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-34156954013937618142014-09-10T08:36:00.000-07:002014-09-12T01:25:16.328-07:00BÁNH ÍT LÁ GAI<div class="itemIntroText" style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin: 0px; padding: 0px;">
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tôi thường nghe bà nội mắng yêu những đứa cháu khi chúng tham ăn rằng “miếng ăn là miếng xấu”, lại có câu tục ngữ “miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”. Cái ăn cái uống chỉ là nhu cầu thiết yếu để sống của con người, nhưng một khi đã đi vào ca dao tục ngữ thì nó trở thành lời dạy dỗ khuyên răn. Rộng hơn, đối với người đi xa thì nó thành ý niệm quê hương thổn thức trong từng nhịp thở.</span></div>
</div>
<div class="itemImageBlock" style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin: 0px 0px 16px; padding: 8px;">
<span class="itemImage" style="border: 0px; display: block; margin: 0px 0px 8px; padding: 0px; text-align: center;"><a class="modal" href="http://quangtri360.com/media/k2/items/cache/cd66a7a18d37d7e5dd969c249e9a1ecb_XL.jpg" rel="{handler: 'image'}" style="border: 0px; color: #666666; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;" title="Click to preview image"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><img alt="Bánh ít lá gai" src="http://quangtri360.com/media/k2/items/cache/cd66a7a18d37d7e5dd969c249e9a1ecb_M.jpg" style="border: 1px solid rgb(204, 204, 204); height: auto; margin: 0px; padding: 8px; width: 400px;" /></span></a></span><br />
<div class="clr" style="border: 0px; clear: both; float: none; height: 0px; line-height: 0; margin: 0px; padding: 0px;">
</div>
</div>
<div class="itemFullText" style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; line-height: 18px; margin: 0px; padding: 0px;">
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Người ta thương nhau trót lưỡi đầu môi, yêu nhau bằng lời nói chưa đủ mà phải nếm được bằng môi, được cắn vào nhau để tận hưởng. Trên chiếc môi xinh ấy từ những ngày rất nhỏ tôi đã được tẩm một thứ hương vị quà bánh quê mẹ, nên khi em cắn vào thì cũng như đã thấu được tấm lòng quê hương. Hôm nay tôi sẽ dẫn em về Quảng Trị, cùng nếm thứ bánh ít nhỏ nhoi. Nhỏ nhưng ngon lắm! Nhỏ nhưng trong đó đã gói trọn tất cả những ngọt-bùi-đắng-cay, cả tấm lòng quê hương em ạ!</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">1. Bóc vỏ chiếc bánh ca dao</span></strong></em></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Có một câu ca dao miền trung thế này:</span></div>
<div align="center" style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">“muốn ăn bánh ít lá gai</span></em></div>
<div align="center" style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi</em>.”</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Câu ca dao này của Bình Định nhưng lại có rất nhiều dị bản, chỉ cần thay tên địa danh vào là có ngay câu của quê hương mình. Tất nhiên, tên thay vào đó phải có hai chữ và có thanh trắc ở chữ thứ hai để hợp với niêm luật lục bát. Cái tên Quảng Trị ai cũng bảo là nặng, nặng như giọng nói miền trung trọ trẹ, nhưng lại gặp may trong trường hợp này. Và tôi lại đọc ca dao quê mình</span></div>
<div align="center" style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">“muốn ăn bánh ít lá gai</span></em></div>
<div align="center" style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">lấy chồng Quảng Trị sợ dài đường đi</em>.”</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tôi đồ rằng câu ca dao dị bản này còn hay hơn câu nguyên gốc, vì chữ <em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">“Trị”</em> lại hợp vần với chữ <em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">“đi”</em> ở cuối nên nó làm cho vĩ thanh của câu được ngân lâu hơn, cái sự xa xôi về đường đi vì thế mà cũng được kéo giãn ra thêm.</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">“Lấy chồng” và “làm dâu” cùng một trường nghĩa, nhưng nếu hoán vị một tí thì câu ca dao lại thành ra một lời keo son thắm thiết. Lấy chồng chỉ là một việc của người con gái đến tuổi cập kê, nhưng làm dâu lại là bổn phận lâu dài của người phụ nữ sau khi lấy chồng. Nên nếu đọc <em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">“muốn ăn bánh ít lá gai/ làm dâu Quảng Trị sợ dài đường đi”</em> thì lời nói ấy càng trở nên ý nghĩa hơn nữa. Nhưng em đừng có sợ, một liều ba bảy cũng liều/ đã thương sao ngại đường nhiều bước đi. Có xa ngái mấy mà ăn một miếng bánh ít Quảng Trị cũng đáng lắm! Không thế mà ngày trước Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã đóng dinh ở Ái Tử – Quảng Trị, cho lập một chợ ở ngã ba sông Thạch Hãn – Vĩnh Định, sau này người dân đặt tên là chợ Sãi, và chợ Sãi cũng là nơi có nghề bánh ít ngon nức tiếng.</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tại sao câu ca dao nói là “lấy chồng/ làm dâu” mà không là “lấy vợ/ làm chồng”?</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Thứ nhất, về mặt chắt thanh chiết tự ta có thể bác bỏ ngay cặp từ này. Nếu đặt “lấy vợ” vào thì chữ “vợ” là thanh trắc sẽ làm sai luật câu lục bát. Nhịp thơ lục bát này là nhịp chẵn đều 2/2 nên các chữ ở vị trí chẵn nhất thiết không được sai luật về thanh điệu. Ca dao không có phá cách/cách tân nên dù có muốn tạo dị bản cũng phải tuân thủ niêm luật. Đấy là chắt thanh.</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Về chiết tự, nếu đặt chữ “lấy vợ” vào thì câu này lại vụng về nghĩa. Chữ <em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">“đi”</em> trong câu ca dao vừa có nghĩa “đi tới nhà người ta”, vừa có nghĩa “đi về thăm nhà mình”, tức<em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"> ”đi”</em> là “đi lại”. Trong truyền thống dân tộc ta “con gái xuất giá tòng phu”, lấy chồng phải về ở nhà chồng, có muốn ở riêng hai vợ chồng thì cũng phải sống chung trong gia đình một thời gian cho đến khi sinh con đầu lòng. Vậy nên đời sống vợ chồng son thường trải qua trong gian đoạn đang ở chung với bố mẹ chồng. Điều này giải thích tại sao khi đi lấy chồng các cô gái hay khóc, lấy chồng càng xa khóc càng nhiều: bởi sợ khó về được để thăm cha mẹ đẻ. Ngược lại, con trai đi ở rễ rất ít, thường chỉ đối với những ai làm rễ ở các nhà không có nam tử thôi. Mà có đi làm rễ thì đàn ông rắn rỏi khoẻ chân, muốn về nhà mình khi nào chả được. Thế nên nếu nói <em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">“làm chồng Quảng Trị đường dài khó đi”</em> thì rất buồn cười!</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Thứ hai, về mặt xét nghĩa toàn bộ cặp câu ca dao, đưa chiếc bánh ít vào thì mới thấy cái ẩn ý của tác giả dân gian xưa thật đáo để. Bánh ít lá gai là loại bánh ngọt. Có nhiều nơi làm bánh ít nhân thịt đậu đỗ hoặc nấm thì bánh đó không làm từ lá gai mà từ bột nếp. Nhân bánh ít lá gai thường là đậu xanh bóc vỏ, nhân được trộn với đường nên khi bánh chín thì mật đường đã ứa ra toàn lớp lá gai nhồi. Bánh ít lá gai ngọt là vì thế. Chỉ con gái đàn bà thì mới thích đồ ngọt, trừ những khi đang mang thai là “có chửa thèm chua” thôi! Đàn ông con trai vốn trời sinh tính khí mệnh hoả, thích rượu chè, mà người thích rượu lại rất kén các món ngọt. Chính vì thế mà câu ca dao này phải dành riêng cho phái nữ.</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Cũng như chiếc bánh ít đó tôi sẽ dành riêng để mời em mà không mời bạn. Các o các chị của tôi cũng không thể mời được người họ thương về Quảng Trị đâu, em ạ!</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">2. Về Quảng Trị làm bánh ít đi em !</span></strong></em></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tôi đã lần theo lối sỏi truyền thống dân tộc, đòi cho được câu ca dao để mời em về Quảng Trị. Bây giờ thì hãy ngồi xuống đây, cởi chiếc áo choàng cho mát vì xứ gió lào cát trắng này khô khốc lắm, rồi cùng bắt tay vào làm thử chiếc bánh quê hương.</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trước hết phải ra ngoài vườn hái lá gai. Nhà tôi có con mương chảy lau lách bao vây một phía nên ở dọc lối ấy cây lá gai mọc lên rất tốt. Cây mọc lên thành dãy như một hàng rào cố hữu che chắn khuôn viên. Mà có cái lạ, tuy đất quê mình khắc khổ vậy, mùa đông mưa dầm lũ ngập đồng, mùa hè nắng cháy thiêu trụi cây, nhưng riêng lá gai thì vẫn xanh vẫn tươi quanh năm. Vậy nên em có về quê tôi thì không phải lo chết thèm bánh ít lá gai một ngày nào cả.</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Lá gai có màu xanh non, nhìn vào như thể nó sẽ không bao giờ già đi. Lá cũng như em vậy đó, ăn chiếc bánh này vào sẽ trẻ xinh mãi. Chiếc lá gai trông hệt như hình trái tim của đôi lứa yêu nhau, hay hệt như một ngọn trầu. Phải vì điều này mà bánh ít luôn có trong những dịp cưới hỏi(?). Tôi mời em câu ca dao có chiếc bánh ít cũng với ý niệm se duyên trái tim ấy.</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
<img alt="" src="http://quangtri360.com/images/dacsan_quangtri/quangtri360_lagai1.jpg" style="border: 0px; display: block; margin: 0px auto; padding: 0px;" /></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Nhớ ngày trước tôi còn học ở Huế, mỗi lần về nhà là mạ lại làm bánh ít để tôi mang vào biếu chủ nhà trọ, bạn bè. Ông nội thì tập nói cho tôi, rằng phải thưa lời <em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">“đây là cây nhà lá vườn, ba mạ nhủ con mang vào biếu để hai bác thử cho vui!”</em>. Ừ! Thì đúng là cây nhà lá vườn thật đấy, nhưng mà ăn bánh ít Quảng Trị không thể ăn cho vui được, ăn một miếng là thèm thuồng rồi nhớ suốt đời. Vậy nên tôi vào thưa với nhà chủ <em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">“đây là cây nhà lá vườn, ba mạ nhủ con mang vào biếu để hai bác ăn cho biết!”</em>. Cái chữ “cho biết” này nó thâm thuý hơn, biết tức là sẽ nhớ, sẽ không bao giờ quên.</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Mạ tôi còn gói riêng một đùm, bảo cái này dành cho người yêu. Mặc dù tôi đã là sinh viên, như ngày trước gọi là cậu tú rồi đấy, thế nhưng nghe mạ nói thì cũng phải cười trong sự ngượng ngùng. Nhưng khi đứng trước em với đùm bánh ít ấy thì lại rất mạnh dạn, hình như bánh ít đã giấu giúp tôi một cái ngượng biết yêu. Còn bạn bè khi ăn thử một chiếc bánh thì khen lấy khen để, cứ bảo “bánh ít Quảng Trị cũng ngon hệt….con trai xứ đó vậy!”. Sau đó lần nào trước khi ra nhà bạn bè cũng đều nhắc nhủ phải mang bằng được bánh ít vào làm quà. Chỉ thế thôi!</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Lá gai hái từ ngoài vườn đem vào được rửa sạch bằng nước giếng vài lần, vớt ra cho lên một chiếc rổ thưa để ráo nước. Trong lúc đó đun một nồi nước sôi bằng chiếc soong to. Mạ tôi nói đun nước luộc lá gai thì phải đun bằng rơm rạ vì lửa rơm có mùi khói đồng, mùi khói ấy sẽ lèn vào lá làm cho chiếc bánh đậm hương vị quê nhà hơn. Tôi thích nhất được vào bếp ngồi đun rơm với mạ trong một ngày đông hơi lạnh bùi bùi, khói lên quyện lấy mái nhà tranh những ngày còn nghèo khiến tôi thương chi lạ. Nhìn ánh lửa cháy ngặt nghèo vì thứ rơm ỉu năm đói, cùng với khói lên cay cay cứ như muốn làm tôi trào nước mắt. Ngồi đun nước luộc lá gai tôi cảm nhận được sự đắng cay đã đi vào trong tiền thân chiếc bánh ít ấy.</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Nước sôi, cho lá vào luộc qua (tiếng Quảng Trị gọi là <em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">trụng</em>) sao cho lá đừng chín nát đen. Sau đó vớt ra để trên chiếc rổ thưa hong một lúc cho ráo nước rồi dùng tay vắt vắt những nắm lá và cho vào cối đá. Công việc tiếp theo là <em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">quết</em> lá. Tay cầm chày giã cối cho đến bao giờ lá nhuyễn ra thành một thứ bột quết nước thì cho thêm bột nếp vào, cùng với một ít đường và tiếp tục nện chày, gọi là <em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">lèn</em> bột. Giã một lúc thì phải dùng vá (môi) đảo đều khối quết trong cối để tất cả lá và bột đều nhau, không có chỗ này nhuyễn chỗ kia xơ.</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Nhân bánh được làm từ đậu xanh bóc vỏ đem nấu cho chín nhừ ra. Để nguội, dùng đũa quấy cho đậu nát mịn rồi trộn đường vào cho ngọt và rắc dầu chuối vào cho thơm. Ngửi cái mùi đậu xanh được trộn dầu chuối là đã ứa nước miếng thèm ăn. Nhưng em chớ có vọc tay vào thử nhuỵ nghe chưa, vì mạ rất kỵ chuyện đó. Mạ nói con trai thử còn được, chứ con gái thử nhuỵ là bánh hỏng liền. Có lẽ đó chỉ là một quan niệm của dân gian ta ngụ ý con gái phải giữ ý giữ tứ, không ăn trước ngồi tót sỗ sàng mà thôi!</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Bột bánh quết xong vắt ra từng mẩu nhỏ, nắn dẹt ra rồi dùng thìa cho nhân đậu xanh vào giữa, vo lại thành một khối tròn tròn bằng quả cau. Từ chiếc lá gai-hình trái tim, nắn ra thành chiếc bánh-quả cau đã là một câu chuyện tình mang đậm tính dân tộc. Những cái lăn tay xoa bánh sau khi vắt lại cũng điệu nghệ lắm! Tôi từng nhìn những bàn tay của các chị xoa bánh và nhận ra được nết dịu dàng mềm mại của người con gái thôn quê.</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Bánh ít được gói bằng lá chuối, thứ lá thân thuộc rất đỗi quê nhà. Lá rọc ngoài nương vào được thấm khăn nước lau sạch, cắt thành từng miếng tròn cỡ như chiếc đĩa. Đặt mẩu bánh sau khi bọc nhân vào giữa miếng lá đó, cuộn lá theo chiều sao cho các sứa lá không bị gẫy để lá không rách. Bẻ quặt hai đầu xuống và gập lại, dùng một sợi dây <em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">chạc</em> chuối buộc quanh để giữ nếp lá đã gói. Chiếc bánh lúc này ú lên thành một khối hình chóp tứ giác giống hình một nóc nhà bốn mái. Ngày trước ông bà ta làm nhà thường dựng nóc bốn mái vì với kiểu kiến trúc ấy thì có thể qua mùa mưa bão an lành. Cũng với kiểu hình bốn mái ấy thì chiếc bánh ít không bị dẹt hoặc méo mó đi khi hấp hơi.</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Hấp bánh là kiểu chưng cách thuỷ. Ở nhà quê thường đặt ba cái chén vào đáy soong to, sau đó gác lên trên một chiếc nan liếp đan thưa rồi sắp bánh vào. Nước đổ vào chỉ vừa đủ lấy hơi xông, nhất thiết không được chạm tới đáy liếp. Đậy nắp nồi đun một hồi chờ bánh chín. Chiếc bánh khi chín lá vỏ màu có xanh thẫm. Khi đặt lên bàn thờ thì nhớ lột dây buộc đi. Sắp một dĩa bánh ít thì phải đủ và chỉ đúng sáu cái thôi.</span></div>
<div align="center" style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">* * *</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Bánh ít dùng trước hết để thờ cúng tiên tổ trong những ngày lễ tết, huý kỵ. Rồi trong những việc hiếu hỷ: đám cưới mời cô bác một chiếc mừng duyên mới, ma chay ăn một miếng bánh ít phân ưu. Sau nữa bánh dùng làm quà cho người đi xa, mang theo như để thể hiện tấm lòng thơm thảo của người nhà quê…</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Ăn một chiếc bánh ít răng có cảm giác dẻo dẻo; lưỡi có vị bùi của lá quết và vị ngọt của đường nhân; mũi ngửi được hương thơm của đậu đỗ xanh rắc dầu chuối; tai lắng nghe những tiếng nhai “chắp…chắp…” có vẻ khoái khẩu thèm thuồng; mắt nhìn chiếc bánh ít thì liên tưởng đến mái nhà, chợt nhớ tổ tiên qua câu gợi ca dao<em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;">“ngó lên nuộc lạt mái nhà/ bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”.</em></span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tôi sẽ không kể nữa đâu, còn những dư vị của bánh ít thì hãy để em thưởng thức rồi sẽ biết. Hương vị quê nhà cũng như những câu ca dao về quê hương, có hát mãi vẫn không sao hết được. Riêng có câu ca dao này tôi xin mạn phép đổi một tí để thủ thỉ cùng em, rằng:</span></div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<div style="text-align: center;">
<em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">“muốn ăn bánh ít lá gai</span></em></div>
</div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: justify;">
<div style="text-align: center;">
<em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">lấy chồng Quảng Trị đường dài…sá chi”</span></em></div>
</div>
<div style="border: 0px; margin-bottom: 15px; padding: 0px; text-align: right;">
<em style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tùy bút của Hoàng Công Danh</span></strong></em></div>
</div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comQuảng Trị, Việt Nam16.7943472 106.9634089999999615.8211902 105.67251549999996 17.7675042 108.25430249999995tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-78916229025458013402014-09-10T08:30:00.000-07:002014-09-12T01:25:51.662-07:00QUẢNG TRỊ<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-T0YRJ1-1kw4/VBBuj7_MMTI/AAAAAAAADgQ/2Nbr8FlUm8Q/s1600/db1.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://3.bp.blogspot.com/-T0YRJ1-1kw4/VBBuj7_MMTI/AAAAAAAADgQ/2Nbr8FlUm8Q/s1600/db1.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><u><span lang="EN-US" style="font-family: "Arial","sans-serif";">Khái Quát Tỉnh Quảng Trị<o:p></o:p></span></u></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">I. Điều kiện tự
nhiên</span></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">1. Vị trí địa lý</span></i></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Quảng Trị là một
tỉnh duyên hải, ở vào cực bắc của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, nơi chuyển
tiếp giữa hai miền Bắc – Nam. Ở phía Bắc, Quảng Trị giáp tỉnh Quảng Bình, phía
Nam giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía Tây giáp nước cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào với đường biên giới khoảng 206 km; phía Đông là biển với chiều dài là 75 km.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ở vào vị trí
trung độ của cả nước, Quảng Trị là nơi mang tính đặc thù về lãnh thổ, khí hậu của
cả phía Bắc lẫn phía Nam; lại nằm trên các trục giao thông quan trọng cả về đường
bộ và đường sắt. Đó là một vị trí thuận lợi cho quá trình xây dựng nền kinh tế
- xã hội ổn định, hội nhập với khu vực và thế giới.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">2. Đặc điểm địa
hình</span></i></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Diện tích Quảng
Trị tuy không lớn nhưng địa hình lãnh thổ rất đa dạng, dốc từ Tây sang Đông tạo
thành 4 vùng địa lý tự nhiên: biển, đồng bằng, trung du và miền núi. Núi ở Quảng
Trị có độ cao từ 250 m – 2.000 m xen kẽ với các dải đồi cao thấp khác nhau, ăn
sâu vào lãnh thổ Việt Nam tạo ra Tây và Đông Trường Sơn.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">3. Khí hậu</span></i></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Điều kiện khí hậu
ở Quảng Trị khá khắc nghiệt, chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam khô nóng, thường có
bão và mưa lớn, biến động khí hậu mạnh. Do nằm trọn vẹn trong nội chí tuyến bắc
bán cầu, hàng năm có hai lần mặt trời đi qua đỉnh nên lượng bức xạ cao: 70 – 80
kcalo/cm<sup>2</sup>/năm. Số giờ nắng trung bình là 1.700 – 1.800 giờ/năm, nhiệt
độ trung bình năm dao động từ 20<sup>0</sup>C – 25<sup>0</sup>C. Mùa mưa thường
từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, tổng lượng mưa khoảng 2.000 – 2.700 mm/năm, độ ẩm
trung bình tháng từ 85% - 90%.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Đặc trưng khí hậu
ở Quảng Trị là gió Tây Nam khô nóng và bão lớn. Hàng năm tỉnh chịu từ 40 – 60
ngày khô nóng và nhiều cơn bão gây gió xoáy giặt kèm theo mưa lớn.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Về điều kiện thuỷ
văn: Quảng Trị có mạng lưới sông ngòi dày đặc, mật độ trung bình 0,8 – 1 km/km<sup>2</sup>.
Các sông ngòi ở đây đều ngắn, dốc, chảy từ Tây sang Đông. Tổng diện tích lưu vực
khoảng 3.640 km<sup>2</sup>,<sup> </sup>tổng<sup> </sup>chiều dài các con sông
tới 1.085 km. Tỉnh có 3 hệ thống sông chính cùng nhiều phụ lưu khác có lưu lượng
dòng chảy lớn. Đó là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các hồ chứa và thuỷ
điện. Ước tính trữ lượng thuỷ điện của sông Bến Hải đạt 834 triệu kWh, sông Mỹ
Chánh: 376 triệu KWh.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ngoài ra, lượng
nước ngầm của tỉnh khá lớn và có chất lượng tốt đủ để cấp nước sinh hoạt và sản
xuất; hệ thống hồ - đầm – phá phân bổ rải rác khắp các vùng là điều kiện tốt
phát triển ngư nghiệp.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">II. Tài nguyên
thiên nhiên</span></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">1. Tài nguyên đất</span></i></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Diện tích đất tự
nhiên của Quảng Trị 474.577 ha. Đất đai ở Quảng Trị vừa đa dạng vừa phức tạp,
phân bổ từ ven biển đến đồi núi cao, trong đó 79,8% diện tích là đồi núi. Tiềm
năng về đất đai của Quảng Trị còn khá lớn với 4. 754,73 km<sup>2</sup> ha chưa
sử dụng.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Nhìn chung có thể
phân chia đất đai ở Quảng Trị theo 10 tiểu vùng và 10 loại đất chính với đặc điểm
riêng về khí hậu, thuỷ văn và thổ nhưỡng thích hợp với nhiều loại cây trồng
khác nhau.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">2. Tài nguyên rừng</span></i></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"> Rừng Quảng trị đa dạng và phong phú, được che
phủ bằng kiểu rừng kín thường xuyên mưa ẩm nhiệt đới, tổ chức thành loài, bao gồm
cây lấy gỗ, dược liệu, cây cảnh có giá trị kinh tế cao.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Đất lâm nghiệp có
344.201 ha, trong đó đất có rừng 172.709 ha (bao gồm rừng tự nhiên 109.894 ha,
rừng trồng 62.815 ha) và trồng 171,492 ha<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">3. Tài nguyên
khoáng sản</span></i></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Quảng Trị có nguồn
tài nguyên khoáng sản tương đối đa dạng và phong phú. Đến cuối năm 1995, tỉnh
đã thống kê được 48 mỏ và điểm quặng, trong đó 17 điểm thuộc nhóm kim loại, 22
điểm thuộc nhóm vật liệu xây dựng…<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Các mỏ đá vôi và
nguyên liệu sản xuất xi măng kéo dài theo hướng tây Bắc – Đông Nam, trữ lượng đạt
khoảng 3,5 tỷ tấn. Khoáng titan phân bố dọc bờ biển Vĩnh Thái – Vĩnh Kim với trữ
lượng đạt 1 triệu tấn. Bên cạnh đó tỉnh còn có nhiều loại khoáng sản quý như
vàng, ăngtimoan; nguồn nước khoáng và cát thuỷ tinh tương đối lớn…là lợi thế lớn
cho ngành công nghiệp của Quảng Trị.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">III.Tiềm năng
kinh tế </span></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">1. Tiềm năng du lịch</span></i></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Quảng Trị có một
hệ thống di tích lịch sử, văn hoá như: thành cổ Quảng Trị, hàng rào điện tử
Macnamara, Nhà thờ La Vang, làng địa đạo Vĩnh Mốc, căn cứ Khe Sanh, làng Vây,
sân bay Tà Cơn, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn… và các quang cảnh thiên nhiên đẹp
như bãi biển Cửa Tùng, Cửa Việt, Mỹ Thuỷ, rừng nguyên sinh Rú Lịnh, suối nước
nóng Đakrong, đảo Cồn Cỏ anh hùng… mở ra triển vọng cho ngành du lịch hồi tưởng,
du lịch sinh thái<o:p></o:p></span><br />
<b style="line-height: 115%;"><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif";">2. Những lĩnh vực
kinh tế lợi thế</span></i></b></div>
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%; text-align: justify;">Với những thuận lợi
về điều kiện tự nhiên, tỉnh Quảng Trị có khả năng phát triển cây công nghiệp
dài ngày như cao su, hồ tiêu, cà phê. Sản xuất vật liệu xây dựng (xi măng, đá
xây dựng…); chế biến nông – lâm - sản và thương mại.</span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comQuảng Trị, Việt Nam16.7943472 106.9634089999999616.7943472 106.96340899999996 16.7943472 106.96340899999996tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-72734422940653494672014-09-10T04:48:00.000-07:002014-09-10T04:48:22.985-07:00Suối Nước Khoáng Nóng Thanh Tân<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-IEhxy6LZPlM/VBA6a_f679I/AAAAAAAADgA/y9_2r3BxXkA/s1600/db34.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-IEhxy6LZPlM/VBA6a_f679I/AAAAAAAADgA/y9_2r3BxXkA/s1600/db34.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Khu nghỉ dưỡng suối
nước khoáng nóng Thanh Tân ở xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên -
Huế. Đây là một khu nghỉ dưỡng hết sức lý tưởng. Ở đầu nguồn, nước khoáng nóng
đến 68ºC, luộc chín trứng gà. Trong những năm chống Mỹ cứu nước, bộ đội bị thương
được đưa về khu suối nước khoáng nóng này để điều trị vết thương rất mau lành.
Bác sĩ Dướng Quát, một trong những người từng chữa trị vết thương cho bộ đội bằng
nước khoáng nóng đã kể lại như vậy. </span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Bây giờ, trên cơ
sở suối nước nóng đó, Công ty nước khoáng thiên nhiên Thanh Tân đã đưa vào khai
thác loại hình du lịch nghỉ dưỡng này. Những ngày hè, có lúc du khách đông đến
hàng nghìn người, trên khắp mọi miền đất nước đều đến đây nghỉ dưỡng. Ngoài hệ
thống ao, suối nước nóng thiên nhiên, còn có hệ thống hồ bơi, hồ tắm nằm ẩn
mình giữa những giàn phong lan rất thơ mộng. Trên hồ tắm có hệ thống nhà nghỉ
được xây dựng bằng nhà tranh, nhà xây kiên cố phục vụ theo nhu cầu của du
khách. Sau khi ngâm tắm xong, du khách có nhu cầu thì được tham gia chương
trình luyện tập thể dục dưỡng sinh, thể dục dụng cụ, xông hơi nước khoáng... hết
sức hấp dẫn. Một hệ thống nhà bếp phục vụ nhu cầu ẩm thực ngay tại chỗ cũng như
dài ngày cho du khách có nhu cầu ở lại nghỉ ngơi và điều dưỡng.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
</div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<br /></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comtp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4498 107.562350116.4498 107.5623501 16.4498 107.5623501tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-15359007794266830852014-09-10T04:23:00.000-07:002014-09-10T04:29:40.069-07:00Ca Huế<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-nykDFn7pchY/VBA0i386c9I/AAAAAAAADfM/GSIryrTqkRI/s1600/db33.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://2.bp.blogspot.com/-nykDFn7pchY/VBA0i386c9I/AAAAAAAADfM/GSIryrTqkRI/s1600/db33.gif" height="149" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Ca Huế</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> là một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế, Việt Nam, bao gồm
ca và đàn, ở nhiều phương diện khá gần gũi với hát ả
đào.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Nếu kinh đô Thăng Long xưa từ
trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian
chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh,
thì kinh đô Phú
Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn
ở Đàng Trong
phát tán thành một lối gọi là ca Huế
(gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế,
một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến
trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ
Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.<o:p></o:p></span><br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-b93uBF8e6XA/VBA1H5zJPBI/AAAAAAAADfU/IRDVQ4CqVXo/s1600/Ca%2BHu%E1%BA%BF%2B4.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://3.bp.blogspot.com/-b93uBF8e6XA/VBA1H5zJPBI/AAAAAAAADfU/IRDVQ4CqVXo/s1600/Ca%2BHu%E1%BA%BF%2B4.jpg" height="424" width="640" /></a></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ca Huế mang sắc
thái địa phương rõ nét bởi nó gắn chặt với đặc điểm ngữ âm ngữ điệu của giọng
nói xứ Huế, hoặc nói một
cách khác mang tính hệ quả là do mối quan hệ gắn bó với nền âm nhạc dân gian -
dân ca xứ Huế. Đây là một đặc điểm trong tiến trình phát triển của Ca Huế và
cũng là một đặc điểm của nền âm nhạc cổ truyền xứ Huế; nơi mà hai thành phần âm
nhạc: chuyên nghiệp bác học (nhã nhạc Cung đình, ca Huế),
thành phần dân gian (dân ca: hò,
lý...) thường xuyên tác động qua
lại, gắn bó, thâm nhập, thúc đẩy lẫn nhau với hiện tượng dân gian hóa ở âm nhạc
bác học và bác học hóa ở âm nhạc dân gian xảy ra liên tục trong quá trình phát
triển.<o:p></o:p></span><br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-i6dx30YoE48/VBA11KdMG2I/AAAAAAAADfs/Jrd9HBi9Z2g/s1600/Ca%2BHu%E1%BA%BF%2B7.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-i6dx30YoE48/VBA11KdMG2I/AAAAAAAADfs/Jrd9HBi9Z2g/s1600/Ca%2BHu%E1%BA%BF%2B7.jpg" height="312" width="640" /></a></div>
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Dù Ca Huế mang rõ
nét tính chất đặc thù địa phương nhưng nó đã không chỉ bó hẹp trong một xứ Huế.
Ngoài yếu tố đặc thù và một số đặc điểm vốn có của mọi thể loại nhạc cổ truyền
thì nghệ thuật Ca Huế vẫn là khởi nguyên từ văn hóa nghệ thuật cội nguồn Thăng Long, hội tụ
từ truyền thống văn hóa âm nhạc dân tộc. Vì vậy trong giai đoạn thịnh đạt đã
lan tỏa trở lại với cội nguồn, thâm nhập và trở thành một thành phần tương hợp
trong hầu hết dân ca vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Chẳng hạn: hơi Huế, giọng Lý, giọng
Kinh ở khối giọng Vặt, giọng Ngoại trong hát Quan họ, hát Xoan, hát Ghẹo, hát
Chèo v.v. Hướng phát triển về phía Nam của Ca Huế thì rõ ràng đã sản sinh ra lối
nhạc tài tử như nhà nghiên cứu Giáo sư Trần Văn Khê nhận xét: "lối
"nhạc tài tử" trong Nam là con đẻ của lối "ca Huế" miền
Trung".</span><br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-dg3tad3Z6_A/VBA2DXUTN1I/AAAAAAAADf0/wsFWW0YuAF4/s1600/Ca%2BHu%E1%BA%BF%2B8.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://3.bp.blogspot.com/-dg3tad3Z6_A/VBA2DXUTN1I/AAAAAAAADf0/wsFWW0YuAF4/s1600/Ca%2BHu%E1%BA%BF%2B8.jpg" height="480" width="640" /></a></div>
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Nói là Ca Huế gắn
với ngữ âm của giọng nói Xứ Huế, mà giọng Huế thì không chuẩn như Hà Nội trong
vấn đề xử lý các dấu giọng, nên với đặc tính "cạn và hẹp" giọng nói
Huế đã để lại dấu vết trong đường nét giai điệu Ca Huế một tính chất đặc hữu,
khác với dân ca nhạc cổ từ đèo Ngang trở ra và từ Hải Vân trở
vào. Tuy vậy một số nhà nghiên cứu còn căn cứ vào sự giao thoa ảnh hưởng của
các truyền thống văn hóa khác trong lịch sử văn hóa Việt Nam cho rằng: điệu Nam
trong ca Huế do ảnh hưởng nhạc Chăm mà có.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-9u61uTY_kOc/VBA1OioSHGI/AAAAAAAADfc/XpjkuAvuJmg/s1600/Ca%2BHu%E1%BA%BF%2B5.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://3.bp.blogspot.com/-9u61uTY_kOc/VBA1OioSHGI/AAAAAAAADfc/XpjkuAvuJmg/s1600/Ca%2BHu%E1%BA%BF%2B5.jpg" height="326" width="640" /></a></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ca Huế không phải
là nhạc cung đình triều Nguyễn nhưng cũng không thuộc loại nhạc dân gian".
Với một hệ thống bài bản phong phú, cấu trúc phức tạp nhưng chặt chẽ, hoàn chỉnh;
những sắc thái tình cảm tinh tế cùng với những đòi hỏi khá phức tạp đối với ca
công về cách hát, đối với nhạc công về kỷ thuật diễn tấu nhạc cụ, nên ca Huế
thuộc về phạm trù âm nhạc cổ điển, bác học.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ca Huế có điệu thức
Bắc và bốn sắc thái (quen gọi là hơi): hơi quảng, hơi đảo, hơi thiền, hơi nhạc,
có điệu thức Nam và bốn sắc thái: hơi xuân, hơi thương, hơi ai, hơi oán. Giữa
hai điệu thức Bắc và Nam có một sắc thái trung gian: hơi dựng.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ca Huế là một thể
loại nhạc hát mang nhiều yếu tố chuyên nghiệp về cấu trúc và phong cách biểu diễn,
nhưng về nội dung âm nhạc của nó thì bộ phận đặc sắc nhất lại chịu ảnh hưởng rõ
rệt của Hò, Lý dân gian.<o:p></o:p></span></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-GesuSLC_E4E/VBA1VS30O8I/AAAAAAAADfk/wMpxM3Goc40/s1600/Ca%2BHu%E1%BA%BF%2B6.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://2.bp.blogspot.com/-GesuSLC_E4E/VBA1VS30O8I/AAAAAAAADfk/wMpxM3Goc40/s1600/Ca%2BHu%E1%BA%BF%2B6.jpg" height="380" width="640" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ca Huế mặc dù xuất
phát tại cung đình nhưng nguồn gốc lại gắn bó với dân gian. Có thể nói rằng,
trong nền âm nhạc cổ truyền Huế thì ca Huế - bộ phận thứ hai của dòng bác học -
là nhịp cầu nối giữa cung đình và dân gian.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-12481455884418324172014-09-10T04:00:00.000-07:002014-09-10T04:00:29.632-07:00Lăng Gia Long<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-7t2-G7OzOEw/VBAvMyxztxI/AAAAAAAADfA/whDx03bQk-E/s1600/db32.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-7t2-G7OzOEw/VBAvMyxztxI/AAAAAAAADfA/whDx03bQk-E/s1600/db32.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN" style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%; text-indent: -0.25in;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><b style="line-height: 115%; text-indent: -0.25in;"><span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Giới thiệu
khái quát</span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Lăng Gia Long hay
Thiên Thọ Lăng nằm trong dãy núi Thiên Thọ, thuộc xã Hương Thọ, huyện Hương
Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách trung tâm Tp. Huế 16km.<br />
Lăng Gia Long là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Kiến trúc lăng
có vẻ đơn sơ nhưng hoành tráng.<br />
Ðến thăm lăng Gia Long, du khách có thể đi thuyền theo sông Hương khoảng 18km rồi
cập bến lăng, hoặc đi theo đường bộ chừng 16km, xuống bến đò Kim Ngọc, đi thêm
vài cây số nữa thì tới.<br />
Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn, nhỏ, trong đó có Ðại
Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của
cả quần sơn này.<br />
Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn tất. Từ bờ sông
Hương đi vào lăng có con đường rộng, hai bên trồng thông và sầu đông cao vút,
xanh um, tạo ra một không khí trong mát, tĩnh mịch. Hai cột trụ biểu uy nghi nằm
ở ngoài cùng, báo hiệu khu vực lăng.<br />
Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng, rộng lớn. Trước có ngọn Ðại
Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu án. Bên trái có 14 ngọn núi làm
"tả thanh long" và bên phải có 14 ngọn làm “hữu bạch hổ”. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tổng thể lăng
chia làm 3 khu vực:</span><b><i><span lang="EN-US" style="font-family: "Arial","sans-serif";"><o:p></o:p></span></i></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;"> </span></span><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Phần chính giữa là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên
Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân chầu với các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế
là Bửu Thành ở đỉnh đồi.<b><i><o:p></o:p></i></b></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Bên phải khu lăng là khu vực tẩm điện với điện Minh Thành
thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất<b><i><o:p></o:p></i></b></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;"> </span></span><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Bên trái khu lăng là Bi Ðình, nay chỉ còn một tấm bia lớn
ghi bài văn bia Thánh đức thần công của vua Minh Mạng ca ngợi vua cha, được chạm
khắc tinh tế và sắc sảo.<b><i><o:p></o:p></i></b></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Lăng Gia Long là
một bức tranh tuyệt tác về sự phối trí giữa thiên nhiên và kiến trúc. Vị vua đầu
tiên của <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">nhà Nguyễn</span>
yên nghỉ trong một không gian tĩnh lặng và đầy chất thơ.<b><i><o:p></o:p></i></b></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tiểu sử vua Gia
Long</span></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br />
Nguyễn Phúc Ánh, tên húy là Chủng, sinh năm Nhâm (1762), con thứ ba của chúa Nguyễn
Phúc Luân. Năm 1773, Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 12 tuổi, theo chúa
Nguyễn Phúc Thuần vào Quảng Nam. Mùa thu năm Ðinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Thuần
tử trận, Nguyễn Phúc Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu, rồi sau chạy sang ẩn
náu nhờ bên đất Xiêm.<br />
Tháng 7/1792, vua Quang Trung mất, con là Quang Toản còn ít tuổi, Nguyễn Ánh tổ
chức tấn công và đến tháng 7/1802, Nguyễn Ánh diệt xong nhà Tây Sơn lên ngôi
hoàng đế, niên hiệu là Gia Long đóng đô tại thành Phú Xuân (Huế) và đặt tên nước
là Việt Nam.<br />
Lần đầu Gia Long quản lý một nước Việt Nam thống nhất từ Bắc chí Nam, từ Lạng
Sơn đến Hà Tiên, Gia Long chia cả nước làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở
ra gọi là Bắc thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn); từ Bình Thuận trở
vào gọi là Gia Ðịnh thành gồm 5 trấn; ở quãng giữa là các trấn độc lập: Thanh
Hoá, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Ðịnh, Phú Yên, Bình Hoà, Bình Thuận, đất kinh kỳ
đặt 4 doanh: Trực Lệ Quảng Ðức Doanh (tức Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng
Bình doanh, Quảng Nam doanh.<br />
Ðể tránh lộng quyền, Gia Long không đặt chức Tể tướng, triều đình chỉ có 6 bộ:
Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các thượng thư đứng đầu và có tả hữu tham tri,
tả hữu thị lang giúp việc. Ở trong cung, không lập ngôi Hoàng hậu, chỉ có Hoàng
Phi và các cung tần.<br />
Năm 1815, bộ “Quốc triều hình luật” gồm 22 quyển với 398 điều luật đã được ban
hành.<br />
Ngày Ðinh Mùi tháng 12 năm Kỷ Mão (1819), Gia Long mất, thọ 59 tuổi, ở ngôi
chúa 25 năm, ở ngôi vua 17 năm.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Quá trình xây dựng Lăng</span></b><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Cũng vì quá sâu sắc
với công trình xây cất “ngôi nhà vĩnh
cửu” của mình mà có lần suýt nữa, Gia Long đã thiệt mạng trong một tai nạn
ở công trường. Một trận gió làm sập ngôi nhà mà vua đang trú ngụ, vua Gia Long
tuy đã ẩn trong một cái hố nhưng vẫn bị thương ở trán, mí mắt và bị dập chân do
một thanh xà rơi trúng. Hai hoàng tử thứ bảy và thứ tám là Tấn và Phổ bị trọng
thương, nhiều người khác bị chết. Gia Long không trừng phạt các quan lại thi
công, ngược lại đã cấp thuốc men để chạy chữa cho họ, cấp phát 500 quan tiền và
500 tiêu chuẩn gạo cho dân làng <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Định Môn</span>, gần nơi xây dựng
lăng.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: 22.5pt; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -22.5pt;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Giá trị</span></b><b><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></i></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Lăng Gia Long là
một bức tranh trác tuyệt về sự phối trí giữa thiên nhiên và kiến trúc, trong
đó, thiên nhiên là yếu tố chính tạo nên nét hùng vĩ của cảnh quan. Đến thăm
lăng, du khách được thả mình trong một không gian tĩnh lặng nhưng đầy chất thơ
để suy ngẫm về những thành bại của cuộc đời mình cũng như vinh nhục của ông vua
đầu triều Nguyễn. Dù hết sức cố gắng của trung tâm bảo tàng di tích <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">cố đô Huế</span>
nhưng xem ra di tích không mấy thu hút khách tham qua , một phần do điều kiện
xa xôi, một phần giá trị về mặt kiến trúc còn thua kém các <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;"><a href="http://dulichdanangdulichdonghanhvietsaigon.blogspot.com/2014/09/lang-tu-duc.html">lăng Tự Đức</a></span>
và <a href="http://dulichdanangdulichdonghanhvietsaigon.blogspot.com/2014/09/lang-khai-dinh.html"><span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Lăng Khải Định</span> </a>và<a href="http://dulichdanangdulichdonghanhvietsaigon.blogspot.com/2014/09/lang-minh-mang.html"> <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">lăng Minh Mạng</span></a>
nên thật sự chưa thu hút du khách.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Miêu tả chi tiết</span></b><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Khu Lăng Tẩm<o:p></o:p></span></i></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Lăng tẩm nhà vua
nằm trên một quả đồi bằng phẳng rộng lớn. Trước có ngọn Đại Thiên Thọ án ngữ,
sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm. Bên trái và bên phải, mỗi bên có 14 ngọn núi là
“Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”. Tổng thể lăng chia làm 3 khu vực:<b><i><o:p></o:p></i></b></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Khu Lăng Mộ<o:p></o:p></span></i></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Phần chính giữa
là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân chầu với
các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế là Bửu Thành ở đỉnh đồi. Bên trong
Bửu Thành có hai ngôi mộ đá, dạng thạch thất, được song táng theo quan niệm “Càn Khôn hiệp đức” - một hình ảnh đẹp
của hạnh phúc và thủy chung.Bên phải khu lăng là khu vực tẩm điện với <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">điện Minh Thành</span> là trung
tâm. Điện Minh Thành được dùng để thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất. Minh
Thành nghĩa là “sự hoàn thiện rực rỡ”. Cũng có một cách giải thích khác là
“hoàn thành vào ngày mai”, bởi người ta cho rằng: “Sườn của điện này chưa có
sơn son thếp vàng và chạm khắc còn đơn giản” (theo L. Cadière). Bên trong điện
Minh Thành, ngày trước có thờ nhiều kỷ vật gắn bó với cuộc đời chinh chiến của
vua Gia Long như cân đai, mũ, yên ngựa.<b><i><o:p></o:p></i></b></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Khu Bi Đình<o:p></o:p></span></i></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Bên trái khu lăng
là Bi Đình, nay chỉ còn một tấm bia lớn ghi bài văn bia “Thánh đức thần công” của vua Minh Mạng
ca ngợi vua cha, được chạm khắc tinh tế và sắc sảo.<b><i><o:p></o:p></i></b></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><i><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Lăng lận cận<o:p></o:p></span></i></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Men theo các lối
đi giữa những đám cỏ và hoa rừng, du khách thả bước dưới bóng thông tươi mát để
sang thăm các lăng phụ cận. Đáng lưu ý nhất là lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận
Thiên Cao Hoàng hậu, nằm trong một vị thế u tịch mà sâu lắng. Điện Gia Thành ở
đó cũng là một công trình kiến trúc được xây dựng theo mô thức của điện Minh
Thành, dùng để thờ người phụ nữ đã sinh ra vị vua có tài nhất của triều Nguyễn
- vua Minh Mạng.<b><i><o:p></o:p></i></b></span></div>
<br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Toàn bộ khu lăng
này là một quần sơn với 42 đồi núi lớn nhỏ có tên gọi riêng, trong đó <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Đại Thiên Thọ</span> là ngọn lớn
nhất được chọn làm tiền án của lăng và được dùng để gọi tên chung cho cả quần
sơn này: <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Thiên Thọ Sơn</span>. Tất cả đều
được quy hoạch trong khu vực quan phòng rộng hơn 28 km2, tạo thành một cảnh
quan hùng tráng chạy dài từ chân dãy Trường Sơn đến bờ Tả Trạch - một hợp lưu của
Hương Giang. Đích thân vua Gia Long đã thám sát, duyệt định vị trí, quy hoạch
và chỉ đạo công tác thiết kế cũng như giám sát tiến độ thi công. Sử cũ cho hay,
thầy Địa lý <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Lê Duy Thanh</span> (con trai nhà
bác học Lê Quý Đôn) là người tìm được thế đất này, nơi mà theo ông “đã tập trung được mọi ảnh hưởng tốt lành tỏa
ra từ nhiều núi đồi bao quanh”, nơi mà “ảnh hưởng tốt lành sẽ còn mãi mãi trong suốt 10 ngàn năm” .<a href="https://www.blogger.com/null" name="Qu.C3.A1_tr.C3.ACnh_x.C3.A2y_d.E1.BB.B1n"></a><b><i><o:p></o:p></i></b></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comtp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4498 107.562350116.4498 107.5623501 16.4498 107.5623501tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-6478377133229692632014-09-10T03:50:00.000-07:002014-09-14T19:31:09.243-07:00Lăng Khải Định<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://1.bp.blogspot.com/-9Au8nJ4_RjI/VBAs05ny2-I/AAAAAAAADe4/fkNaO4GO4u0/s1600/db31.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://1.bp.blogspot.com/-9Au8nJ4_RjI/VBAs05ny2-I/AAAAAAAADe4/fkNaO4GO4u0/s1600/db31.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Lăng Khải Định
hay Ứng Lăng thuộc xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách
Tp. Huế 10km.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">
Lăng Khải Định có diện tích nhỏ hơn so với lăng của các vua tiền nhiệm nhưng
công phu, lộng lẫy hơn; kết hợp tinh xảo hai nền kiến trúc, văn hoá Đông - Tây.<br />
Lên ngôi năm 1916, vua Khải Ðịnh chọn triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê)
cách Huế 10km để xây dựng lăng mộ. Lăng khởi công ngày 04/9/1920 và kéo dài 11
năm mới hoàn thành.<br />
So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Ðịnh có diện tích nhỏ hơn nhiều
nhưng rất công phu và tốn nhiều thời gian. Nó là kết quả hội nhập của nhiều
dòng kiến trúc Á - Âu, Việt Nam cổ điển và hiện đại.<br />
Tổng thể của lăng là một khối nổi hình chữ nhật vươn cao tới 127 bậc.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Vào lăng phải vượt
qua hệ thống của 37 bậc với thành bậc đắp rồng to lớn nhất cả nước, trên sân có
hai dãy Tả - Hữu tòng tự, ở hai bên xây kiểu chồng diêm hai lớp, tám mái, song
các vì kèo lại bằng xi măng cốt thép.<br />
Vượt 29 bậc nữa lên tầng sân bái đình, ở giữa có nhà bia Bát giác xây bê tông cốt
thép hoà trộn cổ kim, trong đó có bia đá. Hai bên sân, mỗi bên có 2 hàng tượng
cùng nhìn vào giữa sân. Ngoài tượng như ở các lăng khác, còn có thêm 6 cặp tượng
linh túc vệ, từng đôi tượng cùng loại ở cạnh nhau được làm đối xứng và cùng đối
xứng với đôi tượng phía đối diện. Các tượng này làm bằng chất liệu đá hiếm
trong lăng Khải Ðịnh và đều có khí sắc. Hai cột trụ biểu cao to.<br />
Qua 3 lớp nền là đến điện thờ. Từ sân lên cửa điện còn phải qua 15 bậc nữa. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ðiện Khải Thành
là phòng chính của cung Thiên Ðịnh, có nhiều phòng liên hoàn. Các điện tường phẳng
được trang trí dày đặc bằng nghệ thuật khảm kính sứ. Cùng với tranh trên tường,
dưới nền lát gạch men hoa và trên trần vẽ Cửu long ẩn hiện trong mây. Cả không
gian 6 mặt đã tạo nên một thế giới nghệ thuật.<br />
Phòng sau của điện Khải Thành là chính tẩm có đặt tượng vua Khải Ðịnh, mộ phần ở
phía dưới. Trong cùng là khán thờ với bài vị của vị vua đã quá cố.<br />
Lăng Khải Ðịnh thực sự là một công trình có giá trị nghệ thuật và kiến trúc. Nó
làm phong phú và đa dạng thêm quần thể lăng tẩm ở Huế.<br />
<b>- </b></span><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif";"> </span></b><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tiểu sử vua Khải Định </span></b><b><span lang="EN-US" style="font-family: "Arial","sans-serif";"><o:p></o:p></span></b></div>
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%; text-align: justify;">Vua Khải Ðịnh
(1916 - 1925) là vị vua thứ 12 của triều Nguyễn, bước lên ngai vàng vào giữa tuổi
31.</span><br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Khải Ðịnh tên là Nguyễn Phúc Bửu Ðảo, là con trai duy nhất của vua Ðồng
Khánh. Sau khi vua Duy Tân bị đày đi Phi Châu, Bửu Ðảo lên ngôi và lấy niên hiệu
là Khải Ðịnh. Từ khi lên ngôi, ông đã say sưa với việc xây dựng cung điện, dinh
thự, lăng tẩm của bản thân và Hoàng tộc như điện Kiến Trung, cung An Ðịnh, cửa
Trường An, cửa Hiển Nhơn, cửa Chương Ðức. Ðặc biệt là Ứng lăng (lăng của Khải Ðịnh).
Khải Ðịnh trị vì được 9 năm thì băng hà (1925), thọ 40 tuổi. <o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comtp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4498 107.562350116.4498 107.5623501 16.4498 107.5623501tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-44053101766048008222014-09-10T01:48:00.000-07:002014-09-14T19:29:08.563-07:00LĂNG TỰ ĐỨC<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-w02Ka-CJ9sY/VBAH0G_DpYI/AAAAAAAADeo/KJ4H6o6GYFg/s1600/db30.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-w02Ka-CJ9sY/VBAH0G_DpYI/AAAAAAAADeo/KJ4H6o6GYFg/s1600/db30.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%; text-indent: -0.25in;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><b style="line-height: 115%; text-indent: -0.25in;"><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Giới thiệu tổng
quát</span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Lăng Tự Ðức hay
Khiêm Lăng tọa lạc tại xã Thủy Biều, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.<br />
Lăng được xây dựng vào năm 1864 và hoàn thành vào năm 1867 trên diện tích
475ha. Khác với các lăng được xây dựng cân đối, lăng Tự Đức được xây dựng phóng
khoáng, hài hoà với thiên nhiên có sẵn phản ánh tâm hồn lãng mãn của vị vua thi
sĩ này.<br />
Lăng Tự Đức là một quần thể công
trình <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">kiến trúc</span>,
trong đó có nơi chôn cất <a href="file:///F:/wiki/Vua" title="Vua"><span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">vua</span></a>
<span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Tự Đức</span>
tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh,
nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Huế</span>. Lúc mới xây dựng,
lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau
cuộc nổi loạn Chày Vôi, <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Tự Đức</span> bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng.<i> </i>Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và
là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">nhà Nguyễn</span><a href="https://www.blogger.com/null" name="Qu.C3.A1_tr.C3.ACnh_x.C3.A2y_l.C4.83ng"></a>.<br />
<b>- Tiểu sử vua Tự Đức</b><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Vua Tự Đức tên
húy là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm,
ngoài ra còn có tên là Nguyễn Phúc Thì
. Ông là con thứ hai của vua <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Thiệu Trị</span> và bà quí phi Phạm Thị Hằng, sinh
ngày 25 tháng 8 năm <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Kỷ Sửu</span>, tức <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">22 tháng 9</span> năm <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">1829</span>. Vua Tự Đức lên ngôi tháng 10 năm <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Đinh Mùi</span>,
<span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">1847</span>, theo di chiếu của vua Thiệu Trị. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Vì Tự Đức là con
thứ hai của vua Thiệu Trị, nên việc truyền ngôi cho ông đã gây nên một bi kịch
trong hoàng tộc. Anh trai của Tự Đức là <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Hồng Bảo</span>,
tuy lớn hơn nhưng lại là con vợ thứ, bị vua Thiệu Trị nhận định là người ít học,
ham chơi nên đã truyền lại ngôi cho Tự Đức. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ngày Hồng Nhậm
lên ngôi, Hồng Bảo uất ức ngất đi ở giữa triều đường. Sau đó Hồng Bảo âm mưu
cùng một số người lấy lại ngai vàng. Hồng Bảo tung nhiều tin tức nói xấu Tự Đức,
người ta ngờ Tự Đức không phải là con vua Thiệu Trị, mà chính là con của <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Trương Đăng Quế</span> được đánh tráo để họ Trương chiếm
ngai vàng. Âm mưu của Hồng Bảo bị bại lộ, Hồng Bảo bị hạ ngục và bị kết án tử
hình. <br />
Tự Đức tha cho anh trai nhưng cho lệnh giam lại. Về sau Hồng Bảo thắt cổ tự tử
trong tù (có sách viết là bị ép uống thuốc độc) năm <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">1854</span>. Cái chết của Hồng Bảo trở thành một
nghi án. Vua Tự Đức sợ sau này sử không chép đúng sự thật nên tự kể lại cuộc đời
của mình và cho khắc vào bia đá lớn. Ngày nay bia đá này vẫn còn ở trong <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">lăng Tự Đức</span>.Tự
Đức là một người ham học, hiểu biết nhiều và đặc biệt yêu thích thơ văn. Ông
làm nhiều thơ <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">chữ Hán</span>,
trong đó có bộ Việt sử tổng vịnh,
vịnh hàng trǎm nhân vật trong <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">lịch sử Việt Nam</span>. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tự Đức làm cả thơ
<span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">chữ Nôm</span>,
những tập như Luận Ngữ diễn ca,
Thập điều diễn ca. Có rất nhiều
giai thoại về Tự Đức, nhất là những chuyện ông giao thiệp với các nhà vǎn, các
học giả đương thời. Ông rất thích <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">lịch sử</span>,
đã chỉ đạo cho Quốc sử quán soạn bộ sử lớn Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, trong đó tự ông ghi nhiều
lời bình luận. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tự Đức rất yêu
nghệ thuật, đã tập trung về kinh đô <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Huế</span> nhiều người soạn kịch bản <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">tuồng</span>, và cho soạn những vở
tuồng lớn như Vạn bửu trình tường,
Quần phương hiến thụy. Tự Đức
được người đời ca ngợi là ông vua có hiếu. Dù làm vua, ông luôn luôn kính cẩn,
vâng lời mẹ dạy. Ông ghi chép các lời rǎn của mẹ vào một cuốn sách đặt tên là cuốn
Từ huấn lục. Thậm chí khi thấy
mình phạm tội, ông còn nằm ra, đặt roi trên chiếc mâm son để chờ bà Từ Dũ trừng
phạt. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tự Đức cũng được
đánh giá là một vua tốt, chăm chỉ xem xét mọi việc triều chính không hề trễ nải,
và được các quan trong triều nể phục.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tự Đức còn là ông
vua nhu nhược, hèn nhát. Ông là người chịu trách nhiệm chính trong việc để mất
Nam kì Lục tỉnh, Bắc kì dẫn đến mất cả nước về tay Thực dân <a href="file:///F:/wiki/Ph%C3%A1p" title="Pháp"><span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Pháp</span></a> sau này. Quân Pháp đến
đến lúc đánh lúc hàng, gặp việc không quả quyết, lại nghe lời phái chủ hòa nên
nhiều lần ra lệnh quan quân thoái lui.<a href="https://www.blogger.com/null" name="Lo.E1.BA.A1n_l.E1.BA.A1c"></a><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tự Đức lên làm
vua trong một hoàn cảnh đất nước khó khăn và phức tạp. Thiên tai liên tiếp: <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">hạn hán</span>, <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">bão lụt</span>, nạn <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">châu chấu</span>
phá hoại mùa màng. Sau sự việc Hồng Bảo đã xảy ra vụ <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">loạn Chày Vôi</span>.
<span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Đoàn Hữu Trưng</span> là rể của <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Tùng Thiện vương</span> (tức là em rể họ của Tự Đức)
đã nổi lên gây cuộc binh biến nhằm lập Hoàng tôn Ưng Đạo, con của Hồng Bảo lên
ngôi. Tự Đức suýt bị giết và sau khi dập tắt cuộc bạo loạn, ông đã cho xử tử cả
nhóm Đoàn Trưng và mẹ con Ưng Đạo (là chị dâu và cháu của ông).<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Sau đó trong nước
còn xảy ra nhiều vụ loạn lạc khác. Phía Bắc, có cuộc nổi lên của <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Lê Duy Cự</span> và <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Cao Bá Quát</span>.
Nhóm khởi nghĩa cùng lúc có nạn châu chấu phát sinh phá hoại mùa màng, nên người
ta cũng gọi là <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">giặc châu chấu</span>. Tiếp theo
đến <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">giặc Cờ Đen</span>, <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Cờ Trắng</span>, <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Cờ Vàng</span>, gọi chung là <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">giặc Tam Đường</span>. Triều đình
đã phải rất vất vả mới dẹp được.<br />
<b>- Quá trình xây lăng</b><b><i><o:p></o:p></i></b></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tự Đức đã sớm
nghĩ đến việc xây lăng mộ cho mình ngay khi còn sống. Vốn là một người giỏi thi
phú, ông đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, địa
điểm được chọn để xây lăng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng,
tổng Cư Chánh.<i><o:p></o:p></i></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Khi mới khởi công
xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình, với mong muốn
được trường tồn. Tuy nhiên, do công việc xây lăng quá cực khổ, lại bị quan lại
đánh đập tàn nhẫn , là nguồn gốc cuộc nổi loạn Chày Vôi của dân phu xây lăng.<i><o:p></o:p></i></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ngày 8-9 âm lịch
năm <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Bính Dần</span>
(1866), tức năm Tự Đức thứ 19, do việc xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu
phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Nhân sự bất mãn đó, với lý do
tôn phù Đinh Đạo (cháu ruột Tự Đức, nguyên tên là Ưng Đạo, do cha là An Phong
công Hồng Bảo làm loạn nên phải đổi thành Đinh Đạo) lên ngôi vua, <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Đoàn Hữu Trưng</span> cùng với các em là Đoàn Hữu Ái,
Đoàn Tư Trực, cùng các đồng chí là Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc,
Tôn Thất Giác, Bùi Văn Liệu, Nguyễn Văn Quí phát động khởi nghĩa. Những người
tham gia khởi nghĩa phần đông là nhân công đang uất hận vì bị bắt lao dịch khắc
nghiệt để xây dựng Vạn niên cơ. Họ dùng chầy vôi - dụng cụ lao động - làm võ
khí nên tục gọi là "giặc chày vôi". Tuy nhiên, cuộc đảo chính thất bại.
Cả nhà Ưng Đạo đều bị hại. Đoàn Hữu Trưng và hai người em bị giết lúc mới 22 tuổi.<i><o:p></o:p></i></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tuy nhiên, do sự
việc này, vua phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung và viết bài biểu trần
tình để tạ tội. Năm 1873, Khiêm Cung mới được hoàn thành, vua Tự Đức vẫn sống
thêm 10 năm nữa rồi mới mất.<a href="https://www.blogger.com/null" name="To.C3.A0n_c.E1.BA.A3nh_l.C4.83ng"></a><i><o:p></o:p></i></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Toàn cảnh lăng<o:p></o:p></span></b></div>
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%; text-align: justify;">Trong vòng La
thành rộng khoảng 12ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành cụm
trên những thế đất phức tạp cao thấp hơn nhau chừng 10m. Nhưng, các hệ thống bậc
cấp lát đá thanh, các lối đi quanh co lát gạch Bát Tràng đã nối tất cả các công
trình kiến trúc lại thành một thể thống nhất, tương quan, gần gũi.</span><br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">
Qua khỏi Khiêm Cung Môn, cửa tam quan hai tầng dựng trên một thế đất cao, người
ta bước vào một hệ thống cung điện gồm vài chục tòa nhà lớn nhỏ và các công
trình kiến trúc phụ thuộc.<br />
Tòa ngang dãy dọc nơi đây đã được dành cho vua và đoàn cung nữ tùy tùng thỉnh
thoảng lên ở lại vui chơi. Minh Khiêm Ðường - nhà hát cổ xưa và mang giá trị
nghệ thuật kiến trúc trang trí. Ðiện Hòa Khiêm - nơi thờ đế và hậu, hiện còn chứa
nhiều đồ ngự dụng và các tác phẩm mỹ thuật đương thời.<br />
Nếu nhà cửa ở Khiêm Cung đều làm bằng gỗ thì tất cả các công trình kiến trúc ở
khu vực lăng mộ bên kia đều được xây bằng gạch, đá. Ðáng để ý nhất là tấm bia lớn
nhất Việt Nam cao chừng 5m, được bảo vệ bằng một tòa nhà đồ sộ kiên cố với cột
to, vách dày và xây cửa cuốn. Các nhà kiến trúc đã cho xây Bi đình bằng vật liệu
và kiểu thức như vậy là dùng để chống chọi với thời gian. Trên ngọn đồi nằm bên
kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trì là Bửu Thành xây bằng gạch và chính giữa có
ngôi nhà nhỏ xây bằng đá thanh, nơi vua yên nghỉ. Bửu thành được bao phủ bởi một
rừng thông xanh ngắt, reo vi vu suốt bốn mùa.<br />
Ngoài ra, hệ thống tháo thoát trong toàn lăng tẩm đã được thiết kế, xây dựng một
trình độ cao, và lưu thông rất tốt. Nhìn chung, mỗi công trình kiến trúc trong
lăng Tự Ðức đều mang một đường nét khác nhau về nghệ thuật tạo hình: không
trùng lặp và rất sinh động. Cách phân bố các khu vực và bố cục các công trình
kiến trúc trong từng khu vực ở lăng Tự Ðức đã phá bỏ hệ thông lệ giữ gìn sự đối
xứng từng cổ điển ở một số lăng khác. Tại đây còn có những lối đi uốn lượn mềm
mại theo thế đất tự nhiên hoặc do bàn tay con người tạo dáng. Ðường nét kiến
trúc thật phóng khoáng, hài hòa thiên nhiên có sẵn, hoặc cải tạo lại cho phù hợp
với nghệ thuật kiến trúc phong cảnh.<br />
Nếu phá vỡ sự đối xứng cũng là một nét đẹp trong nghệ thuật thì lăng Tự Ðức có
thêm nét đẹp đó. Kiến trúc và thiên nhiên ở đây gây được nhiều cảm xúc thẩm mỹ
mới lạ cho người đến tham quan, và phản ánh được tâm hồn lãng mạn trữ tình của
một ông vua thi sĩ.<br />
Lăng Tự Ðức là một bài thơ tuyệt tác, một bức tranh sơn thủy hữu tình, gợi cho
du khách một "hồn êm thơ mộng".<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comLăng Tự Đức, Thủy Xuân, tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4325026 107.5659256000000116.4325026 107.56592560000001 16.4325026 107.56592560000001tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-83238790254684100422014-09-10T00:55:00.001-07:002014-09-10T00:55:32.608-07:00Lăng Minh Mạng<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://1.bp.blogspot.com/-GB5Itc0fSLU/VBADydn1pwI/AAAAAAAADec/smfNbt_fq4I/s1600/db29.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://1.bp.blogspot.com/-GB5Itc0fSLU/VBADydn1pwI/AAAAAAAADec/smfNbt_fq4I/s1600/db29.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN" style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%; text-indent: -0.25in;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><b style="line-height: 115%; text-indent: -0.25in;"><span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Giới thiệu
tổng quát</span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Lăng Minh Mạng hay
Hiếu Lăng thuộc địa phận núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa
Thiên - Huế, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch tạo
thành sông Hương chảy qua Tp. Huế. Lăng cách Tp. Huế 12km.<br />
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ.
Lăng Minh Mạng toát lên vẻ đường bệ, uy nghiêm nhưng rất hài hòa giữa các công trình
kiến trúc và thiên nhiên.<br />
Tháng 4/1840, vua Minh Mạng đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng
là Hiếu Lăng. Lăng được khởi công xây dựng vào tháng 9/1840.<br />
Ðến tháng 1/1841 công trình đang xúc tiến thì Minh Mạng lâm bệnh mất, vua Thiệu
Trị lên nối ngôi và tiếp tục cho xây dựng lăng theo đúng thiết kế cũ. Tháng
8/1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành. Ðến năm 1843 thì
việc xây lăng mới hoàn tất.<br />
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc qui mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ
gồm Cung điện, Lâu đài, Đình tạ... được bố trí cân đối trên một trục dọc từ Ðại
Hồng Môn (ở ngoài cùng) tới chân tường của La Thành sau mộ vua. <b><o:p></o:p></b></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<br /></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Tiểu sử vua Minh Mạng</span></b><span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;"> <br />
Minh Mạng tên huý là Nguyễn Phúc Ðảm, sinh ngày 23 tháng giêng năm Kỷ Dậu
(1789), là con thứ của Gia Long. Tháng giêng năm Canh Thìn (1820),Thái tử Ðảm
lên ngôi Vua, niên hiệu là Minh Mạng.<br />
Minh Mạng có tư chất thông minh, hiếu học, năng động và quyết đoán. Minh Mạng đặt
ra lệ: các quan ai được thăng điện, bổ nhiệm...đều phải đến kinh đô gặp Vua, để
Vua hỏi han công việc, kiểm tra năng lực và khuyên bảo...<br />
Là người tinh thâm nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến học
hành, khoa cử, tuyển chọn nhân tài, năm 1821 cho dựng Quốc Tử Giám, đặt chức Tế
Tửu và Tư Nghiệp, mở lại thi Hội và thi Ðình, trước 6 năm một khoa thi, nay rút
xuống 3 năm.<br />
Minh Mạng cũng rất quan tâm đến võ bị, nhất là thuỷ quân, nên đã sai người tìm
hiểu cách đóng tàu của châu Âu và ước vọng làm sao cho người Việt đóng được tàu
kiểu Tây Âu và biết lái tàu vượt đại dương.<br />
Minh Mạng đã hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, đặt quan khuyến nông, khai
hoang ven biển Bắc Bộ lập thêm hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải.<br />
Về đối ngoại, Minh Mạng đặc biệt chú ý thần phục nhà Thanh, nhưng lại lạnh nhạt
và nghi kỵ đối với các nước phương Tây do vậy đã kìm hãm sự phát triển của đất
nước.<br />
Minh Mạng có rất nhiều vợ nên đã có 78 hoàng tử và 64 công chúa, tổng cộng 142 người
con.<br />
Tháng 12 năm 1840, Minh Mạng ốm nặng rồi mất, trị vì được 20 năm, thọ 50 tuổi. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span lang="EN-US" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Bố cục kiến trúc</span></b><b><span lang="EN-US" style="font-family: "Arial","sans-serif";"> lăng</span></b><b><span lang="EN-US" style="font-family: "Arial","sans-serif";"><o:p></o:p></span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Lăng Minh Mạng có
bố cục kiến trúc cân bằng đối xứng, xung quanh một trục kiến trúc là đường thần
đạo, xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính, sân chầu, nhà
bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân, hồ Trừng Minh, Minh Lâu, hồ Tân Nguyệt,
cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, </span><span lang="EN-US" style="font-family: "Arial","sans-serif";">cầu </span><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Trung Đạo và cuối cùng là Bửu thành</span><span lang="EN-US" style="font-family: "Arial","sans-serif";">.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Lăng có diện tích
18 ha nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha, xung quanh lăng có La thành
bao bọc. Cửa chính của lăng tên là Đại Hồng Môn, là cửa chỉ để rước linh cữu của
vua nhập lăng. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Hai bên cửa chính
là hai cửa Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Hồ Trừng Minh gồm hai nửa nối thông với
nhau ở phía sau điện Sùng Ân nơi có ba cây cầu đá bắc qua, giống như hai lá
"phổi xanh", bao bọc lấy điện Sùng Ân và các kiến trúc vòng ngoài nằm
trên trục thần đạo (khu vực tưởng niệm). <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ở giữa hai hồ Trừng
Minh và Tân Nguyệt, trên đường thần đạo, là Minh Lâu. Hồ Tân Nguyệt hình vầng
trăng non ôm lấy một phần khu mộ vua.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Bửu thành là một
quả đồi thông hình tròn, bao quanh bởi tường thành, bên trong, sâu bên dưới là
mộ vua. Ở chính giữa hồ Tân Nguyệt có một cây cầu mang tên Trung Đạo kiều, nối
Minh Lâu với Bửu thành và đường dạo quanh lăng. Phía sau Bửu thành là rừng
thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Trên mặt cắt kiến
trúc dọc theo đường thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật
nhất quán, âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng cho công trình kiến trúc lăng
tẩm này. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Bố cục kiến trúc
đăng đối của các hạng mục chính trong lăng đem lại cho lăng một vẻ uy nghiêm cần
có của công trình lăng mộ. Tuy vậy, ở ngoài rìa, men theo con đường dạo quanh
co vòng quanh hai hồ nước và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các
công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh như: đình Điếu Ngư, gác
Nghênh Phong, hiên Tuần Lộc, sở Quan Lan, Tạ Hư Hoài ... làm cho toàn bộ quần
thể lăng uy nghiêm nhưng vẫn hài hòa với thiên nhiên và duyên dáng tráng lệ.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Trong khoảng diện
tích được giới hạn bởi vòng La thành dài 1.750m là một quần thể kiến trúc gồm
cung điện, lâu đài, đình tạ được bố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường
Thần đạo dài 700 m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ vua. Hình
thể lăng tựa dáng một người nằm nghỉ trong tư thế thoải mái, đầu gối lên <a href="file:///F:/w/index.php?title=N%C3%BAi_Kim_Ph%E1%BB%A5ng&action=edit&redlink=1" title="Núi Kim Phụng (trang chưa được viết)"><span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">núi Kim Phụng</span></a>, chân duỗi
ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự
nhiên.<a href="https://www.blogger.com/null" name="Mi.C3.AAu_t.E1.BA.A3_chi_ti.E1.BA.BFt"></a><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Miêu tả chi tiết</span></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Từ ngoài vào
trong, các công trình được phân bố trên ba trục song song với nhau mà Thần đạo
là trục trung tâm. Xen giữa những công trình kiến trúc là hồ nước ngát hương
sen và những quả đồi phủ mượt bóng thông, tạo nên một phong cảnh vừa hữu tình vừa
ngoạn mục. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Mở đầu Thần đạo
là Đại Hồng Môn, cổng chính vào lăng, xây bằng vôi gạch, cao hơn 9m, rộng 12m.
Cổng này có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp và các đồ án trang trí cá
chép hóa rồng, long vân... được coi là tiêu biểu của loại cổng tam quan đời
Nguyễn. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Cổng chỉ mở một lần
để đưa quan tài của vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra vào phải qua
hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Sau Đại Hồng Môn
là Bái Đình, lát gạch Bát Tràng (sân rộng 45 x 45 m), hai bên có hai hàng tượng
quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu. Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên Phụng
Thần Sơn, bên trong có bia “Thánh đức thần công” bằng đá Thanh ghi bài văn bia
của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha. Một khoảng sân rộng
tiếp theo chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người
trước sự mênh mông của kiến trúc, đó là sân triều lễ.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Hiển Đức Môn mở đầu
cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng mặt
đất (từ ý niệm trời tròn, đất vuông). <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Điện Sùng Ân nằm ở
giữa được coi là trung tâm, chung quanh có Tả, Hữu Phối Điện (trước) và Tả, Hữu
Tùng Phòng (sau) như những vệ tinh chung quanh. Trong điện thờ bài vị của vua
và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Hoằng Trạch Môn
là công trình kết thúc khu vực tẩm điện, mở ra một không gian của hoa lá và mây
nước phía sau. Tất cả những công trình mang tính hiện thực dường như dừng lại ở
khu vực tẩm điện. Từ đây, bắt đầu một thế giới mới đầy thư nhàn, siêu thoát và
vô biên. 17 bậc thềm đá Thanh đưa du khách vào khoảng trời xanh mát bóng cây và
ngát thơm mùi hoa dại. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ba chiếc cầu: Tả
Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ Trừng Minh như dải lụa
xanh, đưa du khách đến Minh Lâu - một công trình như đột khởi từ quả đồi có tên
là Tam Tài Sơn. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Minh Lâu nghĩa là
lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát, là nơi đi về
của linh hồn tiên đế, là dấu chấm vuông kết thúc một thế giới hữu hạn, là “bộ ngực kiêu hãnh” của “con người” được ví bởi hình dáng của
khu lăng. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Minh Lâu là sự thể
hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa. Tòa nhà này hình
vuông, hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông. Hai bên
Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và Thành Sơn
mang ý nghĩa nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi về cõi vĩnh hằng. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Một cái hồ hình
trăng non tên là Tân Nguyệt ôm lấy Bửu Thành. Đây là hình ảnh của thế giới vô
biên. Hồ hình trăng non ví như yếu tố “Âm”
bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương”
là Bửu Thành - biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm
của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật. Đó là nhân tố tác thành vũ trụ.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Cầu Quang Minh
Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt có 33 bậc tầng cấp dẫn vào nơi yên nghỉ của
nhà vua, nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu
Thành hình tròn. Hình tròn này nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng, được
tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện
khát vọng ôm choàng trái đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị vua quá cố.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Bên cạnh hàng loạt
các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cao còn có gần 600 ô
chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh Lâu
cũng là những tuyệt tác vô giá. Đó là một “bảo tàng thơ” chọn lọc của nền thi
ca Việt Nam đầu <a href="file:///F:/wiki/Th%E1%BA%BF_k%E1%BB%B7_19" title="Thế kỷ 19"><span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">thế kỷ 19</span></a>.<a href="https://www.blogger.com/null" name="T.C3.ACnh_tr.E1.BA.A1ng"></a><o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Hiện trạng</span></b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><o:p></o:p></span></div>
<br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Kiến trúc Lăng có
phần đổ nát nhưng mức độ nhẹ hơn so với số phận của những Lăng khác , một phần
nhờ vào việc Lăng có giá trị về nhiều mặt . Những cây sứ nhiều năm tuổi công với
vẻ hoang toàn mặc cho rêu phong theo chủ ý của Ban bảo vệ di tích cố đô Huế và
quy tắc bắt buộc của <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">UNESCO</span>
nhằm không trùng tu các di sản cố ý để tạo nét nguyên sơ làm cho di tích càng
có giá trị. Hiện nay Lăng thu hút du khách đông nhất sau <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Lăng Tự Đức</span>.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comLăng Khải Định, MINH MẠNG, Thủy Bằng, tp. Huế, Huế, Việt Nam16.3990155 107.590323716.3990155 107.5903237 16.3990155 107.5903237tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-50502345109952806432014-09-10T00:44:00.000-07:002014-09-10T00:44:59.347-07:00Cửu Đỉnh<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-No4GVHIoC00/VBABYUaTdeI/AAAAAAAADeU/NiD01_MlLvU/s1600/db28.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://2.bp.blogspot.com/-No4GVHIoC00/VBABYUaTdeI/AAAAAAAADeU/NiD01_MlLvU/s1600/db28.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Cửu Đỉnh đặt dưới
bóng Hiển Lâm Các, trước sân Thế Miếu ở phía tây nam Hoàng Thành, thuộc Tp. Huế,
tỉnh Thừa Thiên - Huế.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">
Cửu Ðỉnh là chín cái đỉnh đồng lớn nhất Việt Nam đúc năm 1836 thời Minh Mạng, mỗi
đỉnh có một tên riêng ứng với miếu hiệu của một vị hoàng đế thờ trong Thế Miếu.<br />
Cửu Ðỉnh - chín cái đỉnh có những đặc điểm riêng:<br />
Cao Ðỉnh dành cho vua Thế Tổ Cao Hoàng Ðế (tức Gia Long), Nhân Đỉnh dành cho
Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế (tức Minh Mạng), Chương Ðỉnh, Anh Ðỉnh, Nghị Ðỉnh, Thuần
Ðỉnh, Tuyên Ðỉnh dành cho các vua kế tiếp là Thiệu Trị, Tự Ðức, Kiến Phước, Ðồng
Khánh, Khải Ðịnh. Cho đến năm 1958 trong Thế Miếu chỉ có 7 án thờ nên mới dùng
7 đỉnh, còn hai đỉnh Dụ và Huyền chưa dùng đến.<br />
Mới nhìn 9 đỉnh hình như giống nhau, nhưng trong thực tế chúng đều khác nhau:
khác nhau về trọng lượng, khác nhau về bộ chân, cũng như bộ quai ở trên. Nhưng
cái khác nhau đặc biệt nhất là 17 hình chạm chung quanh mỗi đỉnh.<br />
Ứng với các án thờ bên trong Thế Miếu, Cửu Ðỉnh từ hồi mới đúc xong đã được đặt
vào chỗ như ta thấy hiện nay: Cao Ðỉnh đứng giữa một mình ở hàng trước, các đỉnh
khác đứng thẳng hàng ở phía sau theo vị trí cứ một cái bên trái thì đến một cái
bên phải đối xứng nhau qua đỉnh trung tâm: Nhân Cương, Anh Nghị, Thuần Tuyên và
Dũ Huyền.<br />
Mười bảy hình chạm nổi chung quanh mỗi đỉnh gồm những gì tiêu biểu của đất nước
từ Lạng Sơn xuống tận mũi Cà Mau và được qui lại trong các chủ đề: tinh tú,
sông núi, biển cả, thuyền bè, xe cộ, các sản vật quí giá trên rừng, dưới biển của
nước Việt Nam đầu thế kỷ 20.<br />
Minh Mạng đúc Cửu Ðỉnh với mục đích tượng trưng đế quyền của dòng họ. <o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comtp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4498 107.562350116.4498 107.5623501 16.4498 107.5623501tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-63963392276894768782014-09-10T00:34:00.001-07:002014-09-10T00:35:04.616-07:00THẾ MIẾU<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-IW1h6vf6JW8/VA_-4laeYTI/AAAAAAAADeM/9NfZLWY9SDM/s1600/db27.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://3.bp.blogspot.com/-IW1h6vf6JW8/VA_-4laeYTI/AAAAAAAADeM/9NfZLWY9SDM/s1600/db27.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Thế Miếu là nơi
thờ cúng các vua Nguyễn. Đây là một trong những công trình to lớn bậc nhất so với
các miếu, điện ở Việt Nam.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">
Năm 1804, Gia Long cho xây dựng miếu Hoàng Khảo ở vị trí của Thế Miếu ngày nay
để thờ cha mình là Nguyễn Phúc Luân. Sau khi vua Gia Long mất, Minh Mạng lên nối
ngôi, năm 1821 ông đã cho dời miếu Hoàng Khảo lui về phía sau vài chục mét, đổi
thành Hưng Miếu, còn xây Thế Miếu vào vị trí ấy vào năm 1821 - 1822 để thờ vua
Gia Long, và các vua kế vị về sau.<br />
Thế Miếu được xây dựng trên mặt bằng 1.500m² , cũng là toà nhà kép theo kiểu
"trùng thiềm, trùng lương" như Ðiện Thái Hoà. Tiền doanh ( nhà trước)
có 11 gian và chính doanh (nhà sau) có 9 gian.<br />
Hai doanh nối với nhau bằng trần vỏ cua. Tất cả có chung một đường mà ngăn
riêng từng thất tức là cùng một toà nhà mà chia ra nhiều ngăn, một gian
thiết trí, một án thờ giành cho một vị vua.<br />
Nền Thế Miếu cao, ngày xưa lát gạch men Bát Tràng màu vàng và lục. Qua các lần
tu sửa trước năm 1975, nền tiền doanh được lát lại bằng gạch hoa tráng men
vàng, nền chính doanh tráng xi măng. Các cột kèo, đòn tay, liên ba, đố bản đều
sơn thếp nhưng màu sắc nay đã phai úa đi nhiều... Chỉ có các khám thờ và án thờ
còn giữ được màu sơn son thếp vàng. Trước mỗi khám thờ đều treo một bức sáo để
che.<br />
Bộ mái trước kia lợp ngói ống men vàng (hoàng lưu ly) nay đã thay bằng ngói thường.
Trên nóc nhà trước chắp bằng pháp lam ngũ sắc. Các bờ nóc, bờ quyết đều đắp
hình rồng nhưng đơn giản...<br />
Nội thất Thế Miếu, cho đến giữa thế kỷ 20 (1954) chỉ có 7 án thờ, mỗi án một
gian, các gian thừa để trống.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comhồ Tân Miếu, Thuận Hòa, tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4701407 107.5714115000000716.4701407 107.57141150000007 16.4701407 107.57141150000007tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-15172342925302027752014-09-09T18:58:00.000-07:002014-09-09T20:49:32.610-07:00HƯNG MIẾU<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-qIc9VJPfVRg/VA-wIvmQkdI/AAAAAAAADZk/9llZ8TXsg30/s1600/db25.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-qIc9VJPfVRg/VA-wIvmQkdI/AAAAAAAADZk/9llZ8TXsg30/s1600/db25.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Hưng Miếu</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> hay Hưng Tổ Miếu là ngôi miếu
thờ Thế tử Nguyễn Phúc Luân (hay Nguyễn Phúc Côn) và bà Nguyễn Thị Hoàn - song thân của vua Gia Long, vị trí ở tây nam
Hoàng thành (cách Thế Miếu
chừng 50 mét về phía Bắc). Ngôi miếu hiện được dùng để thờ.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Nguyễn Phúc Luân,
đáng lẽ sẽ là người lên ngôi chúa, nhưng trong nội bộ chúa Nguyễn có loạn quyền
thần Trương Phúc Loan nên ông bị giam vào ngục và mất tại
nhà riêng. Tuy mất sớm (32 tuổi): nhưng ông đã để lại đến 6 người còn trai và 4
người con gái, trong đó có Nguyễn
Phúc Ánh, tức Gia Long - vị hoàng đế đầu tiên của Triều Nguyễn sau này.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Sau khi lên ngôi
Hoàng đế năm 1802, vua Gia Long
tìm lại mộ phần của phụ thân và xây dựng một ngôi miếu để thờ phụng. Theo sách
sử triều Nguyễn, việc xây dựng được hoàn tất chỉ trong 4 trên địa điểm của Thế Miếu
ngày nay, chính thức sử dụng từ tháng 3 năm 1805, ngôi miếu khi ấy có tên là Hoàng Khảo Miếu.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Đến năm 1821, vua
Minh Mạng cho dời Hoàng Khảo Miếu lùi về phía sau địa điểm cũ 50m để sử dụng
khu đất của Hoàng Khảo Miếu xây Thế Miếu. Sau khi hoàn tất ông cho đổi tên khu
miếu thành Hưng Tổ Miếu.<o:p></o:p></span></div>
<div style="line-height: 115%; margin-bottom: .0001pt; margin: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tháng 2 năm 1947, khu miếu bị đốt cháy cùng với
Tử Cấm Thành và nhiều cung điện khác.<o:p></o:p></span></div>
<div style="line-height: 115%; margin-bottom: .0001pt; margin: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Năm 1950, Bảo Đại
về Huế mua lại An Khánh Vương từ, vốn là nơi thờ một người dòng
dõi hoàng tộc là An Khánh Vương Nguyễn
Phúc Quang (con vua Gia
Long) để xây dựng lại thành Hưng Miếu mới. Năm 1951, Hưng Miếu mới được tái
lập. Năm 1995, nó được trùng tu lại một lần nữa. Trong lần này miếu được sơn
son thiếp vàng.<o:p></o:p></span></div>
<div style="line-height: 115%; margin-bottom: .0001pt; margin: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Kiến trúc của
Hưng Miếu hiện tại có nền tảng từ An Khánh Vương từ. Nhưng vì mặt bằng của Hưng Miếu
cũ nhỏ hơn An Khánh Vương từ nên khi xây dựng người ta buộc phải dời hai hàng cột
mỗi bên và cắt bớt một số mái ở cả hai bên.<o:p></o:p></span></div>
<div style="line-height: 115%; margin-bottom: .0001pt; margin: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Trên một mặt bằng
gần như vuông: 19m x 19,20m người ta cấu trúc tòa nhà theo thức trùng diêm và
trùng lương của các cung điện khác ở Huế. Miếu là một ngôi nhà kép chừng 400m<sup>2</sup>
mái được lợp bằng ngói âm dương men vàng, nền cao 0,68 m bó bằng đá Thanh. <o:p></o:p></span></div>
<div style="line-height: 115%; margin-bottom: .0001pt; margin: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Toàn bộ dàn trò gồm
9 hàng cột tính từ trước đến sau và 8 hàng cột tính từ trái sang phải, kê chân
trên đá tảng cùng với các mảng trang trí đều được làm bằng gỗ quý: lim, sao, kền kền, huê mộc. Tất cả các kèo điều được
trang rất tinh xảo, mặt dưới và mặt trên đều được trạm trổ hoa lá và hình ảnh
có tác dụng làm các bộ phận gỗ trở nên nhẹ nhàng. Các cột trốn tuy nhỏ, nhưng
hai đầu được đẽo vuốt vào rồi nở ra hình hoa sen, rất ăn khớp với nhau. Giữa 2
cột trốn của mồi vì kéo còn dựng thêm các khung gỗ được chạm lộng hình kỷ hà với
kích cỡ khác nhau thay đổi theo từng tầng.<o:p></o:p></span></div>
<div style="line-height: 115%; margin-bottom: .0001pt; margin: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Hệ thống liên ba
chia làm 4 tầng mỗi tầng phân khoảng thành các ô hộc được trang trí theo lối “Nhất
thi Nhất họa” khắc nổi nhiều chủ đề: đôi sáo, đàn tỳ, pho sách .. đôi chỗ còn
có cả cây kiếm và cây như ý.<o:p></o:p></span></div>
<div style="line-height: 115%; margin-bottom: .0001pt; margin: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Mặt dưới mặt tiền
hạ doanh được trang trí một dải bản gỗ hình chữ U chia ra làm ô hộc với lối
trang trí giống hệ thống nhất liên hạ.<o:p></o:p></span></div>
<div style="line-height: 115%; margin-bottom: .0001pt; margin: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Hai gian áp chót
đối xứng nhau dưới trần thừa lưu, có hai bức đố bằng gỗ được chạm nổi, chạm lộng,
chạm kênh bông ở cả hai mặt trong và ngoài, ở chính giữa mỗi mặt là hình ảnh nổi
của một trong 8 bát bửu.<o:p></o:p></span></div>
<div style="line-height: 115%; margin-bottom: .0001pt; margin: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Đằng trước miếu
có một hàng cột gồm sáu cái đứng trên mặt sân được xây bằng xi măng giả đá. Ở đầu
cột chắp hình hoa sen đỡ lấy con-xơn (console).<o:p></o:p></span></div>
<div style="line-height: 115%; margin-bottom: .0001pt; margin: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Phần chính doanh
gồm có 3 gian và 2 kép, tiền doanh có 5 gian và 2 chái đơn. Mặt trước của mỗi
chái đơn mà mộ mảng tường xây được trang trí chữ "thọ" cách điệu, có
tác dụng tăng tính chịu lực.<o:p></o:p></span></div>
<div style="line-height: 115%; margin-bottom: .0001pt; margin: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Sân trước Hưng Miếu
có hình chữ nhật (20m x 18,45m) được lát gạch Bát Tràng.
Giữa sân là đường thần đạo lát bằng đá thanh, chạy từ bậc thềm ra đến Miếu môn
phía trước rộng 2,15m. Song song với hàng cột hiên là dãy các chậu sứ trồng cây
cảnh mỗi chậu đặt trên đôn bằng đá gồm 6 cái. Bên phải sân có một cái lư dùng để
đốt tờ sớ.<o:p></o:p></span></div>
<div style="line-height: 115%; margin-bottom: .0001pt; margin: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Bên phải trái
trong khuôn viên Hưng Miếu còn có hai ngôi nhà Thần Khố (nhà kho của Thần) và
Thần Trù (nhà bếp của Thần). Các khuôn viên được bao bọc bằng một bức tường cao
xây bằng gạch với 4 cửa đối xứng từng cặp: Chương Khánh, Dục Khánh, Trí Tướng
và Ứng Tường. Bên trái khuôn viên hiện vẫn còn 2 bia đá: bia đá dựng năm 1804
khắc bài văn Ngự chế của Gia Long và bia đá dựng năm 1821 khắc bài văn Ngự chế
của Minh Mạng nói lại lịch sử xây dựng Hưng Miếu và Thế Miếu.<o:p></o:p></span></div>
<br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<br /></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comtp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4498 107.562350116.4498 107.5623501 16.4498 107.5623501tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-28921372562577904642014-09-09T18:49:00.003-07:002014-09-14T19:12:17.876-07:00Triệu Miếu<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-L6V1PTMvA1U/VA-uJJXXMXI/AAAAAAAADZc/GL_8jGR7clw/s1600/db23.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-L6V1PTMvA1U/VA-uJJXXMXI/AAAAAAAADZc/GL_8jGR7clw/s1600/db23.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Triệu Tổ miếu</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> là một công trình kiến trúc trong Hoàng thành Huế. Triệu Tổ miếu được xây dựng
dưới thời vua thứ nhất của nhà Nguyễn, năm Gia Long thứ 3 (1804). Miếu này nằm ở
phía bắc của Thái Miếu, là miếu thờ Nguyễn Kim,
thân sinh của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Miếu được xây trong một khuôn viên hình
chữ nhật, tường phía nam gắn liền với tường Thái Miếu. Bên trong điện chính đặt
án thờ Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế và Hoàng hậu. Mỗi năm tổ chức 5 lần tế tương tự ở
Thái Miếu. Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết.
Nguyễn Kim đã được triều Nguyễn truy tôn miếu hiệu cho ông là Triệu Tổ Về hình
thức và qui mô kiến trúc.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Miếu gồm hai ngôi
nhà 5 gian. Gian giữa đặt thần khám Nguyễn Kim và Hoàng hậu. Tả hữu là Thần Khố
và Thần Trù. Bên trong, trước án thờ có đặt sập chạm, trên trải chiếu vàng, thờ
hầu như đủ mọi thứ cho mọi người cần dùng hằng ngày: ve chén, khay trà, gối dựa,
khăn lau mặt, cơi trầu chén đũa… <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Sân Triệu Miếu được
lát gạch, đặt nhiều chậu hoa, cây kiểng, những con nghê đồng để thêu vàng mã,
chân trụ đá để cắm tàu lọng trong những ngày tiết lễ. Giữa sân có con đường
Dõng Đạo, rộng chừng một thước, trong buổi lễ chỉ có vua đi đường này, ai lỡ bước
phạm con đường này sẽ bị tội phạm tất (phạm vào con đường cấm khi vua xuất
hành).<o:p></o:p></span></div>
<br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Triệu Miếu nằm
sau <span class="selectmean">Thái
Miếu</span>, ngăn cách bởi một bức bình phong. Xung quanh có tường bao bọc.
Có các cửa Tập Khánh ở phía trước và Diễn Khánh ở bên phải.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comtp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4498 107.562350116.4498 107.5623501 16.4498 107.5623501tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-12135835405215215352014-09-09T18:37:00.001-07:002014-09-09T18:39:14.298-07:00Điện Thái Hoà Và Sân Đại Triều Nghi<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-Z6dBlSOWAV4/VA-qj30fP7I/AAAAAAAADZE/E9qIVtja51s/s1600/db22.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-Z6dBlSOWAV4/VA-qj30fP7I/AAAAAAAADZE/E9qIVtja51s/s1600/db22.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"><a href="http://dulichdanangdulichdonghanhvietsaigon.blogspot.com/2014/09/dien-thai-hoa.html">Ðiện Thái Hoà</a> nằm
ngay trên đường xuyên tâm Hoàng Thành nhìn thẳng ra cửa Ngọ Môn trong kinh
thành Huế, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<a href="http://dulichdanangdulichdonghanhvietsaigon.blogspot.com/2014/09/dien-thai-hoa.html" style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Ðiện Thái Hoà</a><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"> là trung tâm quan trọng nhất của kinh thành, tại đây tổ chức các
buổi lễ đại triều.</span><a href="http://dulichdanangdulichdonghanhvietsaigon.blogspot.com/2014/09/dien-thai-hoa.html" style="font-family: Arial, sans-serif;">Ðiện Thái Hoà</a><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"> xây dựng năm 1805 đời Gia Long; năm 1806, Gia Long chính thức tổ
chức lễ đăng quang tại điện này.<br />
Năm 1833, vua Minh Mạng xây dựng </span><a href="http://dulichdanangdulichdonghanhvietsaigon.blogspot.com/2014/09/dien-thai-hoa.html" style="font-family: Arial, sans-serif;">Ðiện Thái Hoà</a><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"> ở chỗ hiện nay trên một nền cao
2,32m, toà điện dài 44m, sâu 30,5m, cao 11,8m, chính tịch 5 gian, hai chái, tiền
tịch 7 gian hai chái, hai nếp nhà ghép lại với nhau, cột sơn son, vẽ rồng vàng,
giữa bờ nóc gắn mảnh sứ nhiều màu, mái lợp ngói Hoàng Lưu Ly. Ở gian
chính giữa có treo một bức hoành khắc đại tự “Thái Hòa Điện”, phía trong là
ngai vàng để trên bệ ba tầng, phía trên trần rủ xuống một cái bửu tán thiếp
vàng, thêu hình viên long. Trên trần mỗi lồng căn có treo lồng đèn gương hình lục
giác, bát giác, các cạnh đính gương ngũ sắc.<br />
Năm 1839, vua Minh Mạng cho sơn son thiếp vàng bộ tuồng gỗ điện làm tăng thêm
phần huy hoàng cho ngôi điện lịch sử này. Năm 1899, vua Thành Thái cho lát gạch
hoa theo kiểu Tây phương. Năm 1923, Khải Ðịnh cho làm hai lớp gương ở phía trước
và phía sau. (Nguyên thuỷ </span><a href="http://dulichdanangdulichdonghanhvietsaigon.blogspot.com/2014/09/dien-thai-hoa.html" style="font-family: Arial, sans-serif;">Ðiện Thái Hoà</a><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"> để trống, chỉ có những bức sáo che).<br />
Trong điện có trang hoàng một số ché và đồ xưa. Trước sân đặt một hàng đôn bằng
đá chạm, trên mỗi đôn có một cái thống lớn trồng cây cảnh rất quí. Những người
xây dựng </span><a href="http://dulichdanangdulichdonghanhvietsaigon.blogspot.com/2014/09/dien-thai-hoa.html" style="font-family: Arial, sans-serif;">Ðiện Thái Hoà</a><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"> đã tạo được hai nét đặc sắc: mùa hè vào điện thấy mát,
mùa đông thì trái lại, rất ấm. Ngồi trên ngai ở trung tâm nghe rất rõ những tiếng
nói từ các nơi trong điện.<br />
Sân rộng trước điện gọi là sân Ðại Triều Nghi, lát đá Thanh, chia làm hai bậc:
bậc trên dành cho các quan văn, quan võ ấn quan (từ Hàng tam phẩm trở lên chánh
nhất phẩm). Hai bên sân có hai hàng trụ đá đề rõ phẩm trật để cho các quan xem
đó mà sắp hàng cho thứ tự gọi là Phẩm Sơn. </span></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-K_XRnagsVTc/VA-rP-VTf5I/AAAAAAAADZM/az4NT5iTW7Q/s1600/db23.gif" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-K_XRnagsVTc/VA-rP-VTf5I/AAAAAAAADZM/az4NT5iTW7Q/s1600/db23.gif" height="480" width="640" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br />
Dưới cùng, gần cầu Trung Ðạo còn một hàng nữa dành cho các kỳ cựu hương lão,
thích lý đến chầu trong những dịp khánh tiết. Hai góc sân có hai con Kỳ Lân bằng
đồng thiếp vàng để trong lồng gương bằng gỗ sơn vàng. Hai con Kỳ Lân được trang
trí ở hai góc sân có ý nghĩa là đời thái bình, đồng thời nó cũng là một biểu tượng
nhắc nhở sự nghiêm chỉnh giữa chốn triều nghi.<br />
Ngăn cách giữa cửa Ngọ Môn và sân Ðại Triều Nghi là hồ Thái Dịch Đào năm 1833.
Cầu Trung Ðạo hai bên có lan can bắc qua hồ nối liền hai kiến trúc này với
nhau.<br />
Ở hai đầu cầu Trung Ðạo có dựng hai Phường Môn chạm nổi rồng năm móng (long vân
đồng trụ), đường nét sắc sảo tinh vi. Tuy hai trụ bên đối xứng nhau nhưng một
bên rồng vươn lên, một bên lao xuống vẫn tạo ra được sự sinh động hấp dẫn.</span><a href="http://dulichdanangdulichdonghanhvietsaigon.blogspot.com/2014/09/dien-thai-hoa.html" style="font-family: Arial, sans-serif;">Ðiện Thái Hoà</a><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"> là nơi tổ chức những lễ lớn của triều đình như lễ lên ngôi, lễ
phong Hoàng Thái Tử, lễ tiếp đón sứ thần nước lớn, lễ Vạn Thọ... Mỗi tháng có
hai lần thiết đại triều ở đây, thường triều chỉ tổ chức ở điện Cần Chánh sau Ðại
Cung Môn.<br />
Khi thiết triều, vua đội mũ cửu long, mặc hoàng bào, lưng đeo đai, tay cầm hốt
trầm quế, chân đi hia, uy nghi ngồi trên ngai vàng, các quan tứ trụ và những
hoàng thân, quốc thích được đứng hai bên trong điện, còn toàn bộ các quan đều sắp
hàng đứng ở ngoài sân theo phẩm trật như đã nêu trên.<br />
Những buổi thiết đại triều thường tổ chức rất sớm, khi mặt trời lên thì thường
đã xong. <o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comĐiện Thái Hòa, Hai Mươi Ba Tháng Tám, Thuận Thành, tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4687417 107.5783569999999816.4687417 107.57835699999998 16.4687417 107.57835699999998tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-45976113527716591802014-09-09T18:28:00.002-07:002014-09-09T18:29:06.689-07:00Ngọ Môn<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
</div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-U-0SZUzDPuk/VA-pJE8venI/AAAAAAAADY0/9VeLrRvkUH8/s1600/db20.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-U-0SZUzDPuk/VA-pJE8venI/AAAAAAAADY0/9VeLrRvkUH8/s1600/db20.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Ngọ Môn</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> là cổng chính phía nam của Hoàng
thành Huế. Hiện nay là một trong những di tích kiến trúc thời Nguyễn trong
quần thể di tích cố đô Huế.
Ngọ Môn, có nghĩa đen là Cổng giữa trưa
hay Cổng xoay về hướng Ngọ, là cổng
lớn nhất trong 4 cổng chính của Hoàng thành Huế.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Trước kia tại vị
trí này là Nam Khuyết Đài, xây dựng đầu
thời Gia Long. Trên đài
này có điện Càn Nguyên, hai bên có hai cửa là Tả Đoan Môn và Hữu Đoan Môn. Đến năm Minh Mạng
14 (1833) khi triều Nguyễn tổ chức qui hoạch lại toàn bộ mặt bằng kiến trúc
Hoàng thành, Nam Khuyết Đài bị giải thể
hoàn toàn để lấy chỗ xây dựng Ngọ Môn. Về mặt từ nguyên, Ngọ Môn có nghĩa là
chiếc cổng xây mặt về hướng Ngọ. Hướng này, theo quan niệm của địa lý phong thủy
phương Đông là hướng Nam. Hướng của Ngọ Môn cũng như toàn bộ Kinh thành Huế
trên thực tế là hướng càn - tốn (tây bắc - đông nam) nhưng vẫn được xem là hướng
Ngọ (hướng nam). Theo Dịch học hướng nam là hướng dành cho bậc vua Chúa để “nhi
thính thiên hạ, hướng minh nhi trị”.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Về mặt kiến trúc
Ngọ Môn có dáng dấp tương tự Thiên An môn ở Cố cung Bắc Kinh nhưng vẫn
thể hiện rõ phong cách kiến trúc dân tộc Việt Nam. Ngọ Môn có hai phần chính
là: đài - cổng và lầu Ngũ Phụng.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Phần đài – cổng<o:p></o:p></span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Có bình diện hình
chữ U vuông góc, đáy dài 57,77m, cạnh bên dài 27,06m. Đài được xây bằng gạch đá
kết hợp với các thanh dầm chịu lực bằng đồng thau. Đài cao gần 5m, diện tích
chiếm đất hơn 1560m2 (kể cả phần trong lòng chữ U). Thân đài trổ 5 lối đi. Lối
chính giữa là Ngọ Môn, chỉ dành cho vua đi. Hai lối bên là Tả Giáp Môn và Hữu
Giáp Môn, dành cho quan văn, võ theo cùng trong đoàn Ngự đạo. Hai lối đi bên
ngoài cùng nằm ở hai cánh chữ U là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn, dành cho binh
lính và voi ngựa theo hầu.<o:p></o:p></span></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-S2sdsdBSJvA/VA-pPzIUcDI/AAAAAAAADY8/Cynug0n-jIs/s1600/db21.gif" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://2.bp.blogspot.com/-S2sdsdBSJvA/VA-pPzIUcDI/AAAAAAAADY8/Cynug0n-jIs/s1600/db21.gif" height="480" width="640" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%; text-indent: -0.25in;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><b style="line-height: 115%; text-indent: -0.25in;"><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Lầu Ngũ Phụng</span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Lầu Ngũ phụng là
phần lầu đặt ở phía trên đài - cổng. Ngoài phần thân đài, lầu còn được tôn cao
bởi một hệ thống nền cao 1,15m cũng chạy suốt thân đài hình chữ U. Lầu có hai tầng,
kết cấu bộ khung hoàn toàn bằng gỗ lim với chẳn 100 cây cột. Mái tầng dưới nối
liền nhau, chạy vòng quanh để che cho phần hồi lang. Mái tầng trên chia thành 9
bộ, với rất nhiều hình chim phụng trang trí ở phần bờ nóc, bờ quyết, khiến tòa
lầu trông rất nhẹ nhàng, thanh thoát. Bộ mái chính giữa của lầu Ngũ Phụng lợp
ngói lưu ly màu vàng, tám bộ còn lại lợp ngói lưu ly màu xanh.<o:p></o:p></span></div>
<br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ngọ Môn cũng là
nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Nơi đây ngày xưa vẫn thường diễn
ra các lễ lạc quan trọng nhất của triều Nguyễn như lễ Ban sóc (ban lịch mới),
Truyền Lô (tuyên đọc tên tiến sĩ tân khoa)... Ngày 30 tháng 8 năm 1945, tại Ngọ Môn, vua Bảo Đại,
vị vua cuối cùng của Việt Nam, đã thoái vị và trao chính quyền lại cho chính phủ
lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comKinh thành Huế, tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.467714 107.5791020000000316.4372605 107.53876150000004 16.4981675 107.61944250000003tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-50904910992809431812014-09-09T10:12:00.001-07:002014-09-09T10:13:29.776-07:00Kỳ Đài<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-L2PF_Ogvy90/VA809gW8p3I/AAAAAAAADYg/WKllchYj1m8/s1600/db19.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://2.bp.blogspot.com/-L2PF_Ogvy90/VA809gW8p3I/AAAAAAAADYg/WKllchYj1m8/s1600/db19.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Kỳ Đài</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> còn gọi là Cột cờ là di
tích kiến trúc thời Nguyễn nằm chính giữa mặt nam của kinh
thành Huế thuộc phạm vi pháo đài Nam Chánh cũng là nơi treo cờ của triều
đình.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Kỳ Đài được xây dựng
vào năm Gia Long thứ 6
(1807)</span><span style="font-family: "Arial","sans-serif";"> </span><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">cùng thời gian
xây dựng kinh thành. Đến thời Minh Mạng, Kỳ Ðài được tu sửa vào các năm 1829, 1831 và
1840.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Kỳ Đài gồm hai phần:
đài cờ và cột cờ.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Đài cờ:<o:p></o:p></span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Gồm ba tầng hình
chóp cụt chữ nhật chồng lên nhau. Tầng thứ nhất cao hơn 5,5 m, tầng giữa cao
khoảng 6 m, tầng trên cùng cao hơn 6 m. Tổng cộng của ba tầng đài cao khoảng
17,5 m. Từ mặt đất lên tầng dưới bằng một lối đi nhỏ ở phía trái Kỳ Ðài, tầng
dưới thông với tầng giữa bằng một cửa vòm rộng 4 m, tầng giữa thông với tầng
trên cùng cũng bằng một cửa vòm rộng 2 m. Ðỉnh mỗi tầng có xây một hệ thống lan
can cao 1 m được trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng. Nền ba tầng lát gạch vuông
và gạch vồ, có hệ thống thoát nước mưa xuống dưới. Trước đây còn có hai chòi
canh và tám khẩu đại bác.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; margin-left: .25in; mso-list: l0 level1 lfo1; text-align: justify; text-indent: -.25in;">
<!--[if !supportLists]--><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-fareast-font-family: Arial;">-<span style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: 7pt; line-height: normal;">
</span></span><!--[endif]--><b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Cột cờ:<o:p></o:p></span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Nguyên xưa làm bằng
gỗ, gồm hai tầng, cao gần 30 m. Năm Thiệu Trị
thứ 6 (1846), cột cờ được thay bằng một cây cột gỗ dài hơn 32 m. Đến năm Thành Thái
thứ 16 (1904), cột cờ này bị một cơn bão lớn quật gãy, nên sau phải đổi làm bằng
ống gang. Năm 1947, khi quân Pháp tái chiếm Huế, cột cờ lại bị pháo bắn gãy một
lần nữa. Năm 1948, cột cờ bằng bê tông cốt sắt với tổng chiều cao 37 m hiện nay mới được
xây dựng.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Thời Nguyễn,
trong tất cả các dịp lễ tiết, chầu mừng, tuần du cho đến việc cấp báo đều có hiệu
cờ. Trên đỉnh cột cờ còn đặt một trạm quan sát gọi là Vọng Đẩu. Thỉnh thoảng,
lính canh phải trèo lên Vọng Đẩu dùng kính Thiên lý quan sát ngoài bờ biển.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ngày 23/8/1945, sau khi Bảo Đại
thoái vị, lá cờ đỏ sao vàng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thay thế cho
là cớ hình quẻ ly của triều đình Nguyễn. Trong Sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968, 8 giờ sáng ngày
31/1/1968 quân giải phóng miền Nam chiếm được kỳ đài
và lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam được kéo lên trong 26 ngày đêm.<o:p></o:p></span></div>
<br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ngày 26/3/1975, sau khi giành thắng lợi trong Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, lá cờ dài 12 m,
rộng 8 m của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam lại được kéo lên kỳ đài.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comKỳ Đài, Xuân 68, Thuận Hòa, tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4662784 107.5801957999999616.4662784 107.58019579999996 16.4662784 107.58019579999996tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-41014278187717801262014-09-09T10:01:00.000-07:002014-09-09T10:01:52.702-07:00Kinh Thành Huế<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-35eO5I2Sp3k/VA8yXXpJMsI/AAAAAAAADYY/PyUwI7FqC0c/s1600/db18.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-35eO5I2Sp3k/VA8yXXpJMsI/AAAAAAAADYY/PyUwI7FqC0c/s1600/db18.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; tab-stops: 211.5pt center 248.35pt; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Kinh thành Huế nằm
ở bờ bắc sông Hương và thuộc địa phận Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">
Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc của phương Tây kết hợp một cách tài
tình với kiến trúc thành quách phương Đông.<br />
Huế từ xa xưa đã được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của xứ "Ðàng
Trong" và chính thức trở thành kinh đô dưới triều Tây Sơn. Trong gần 4 thế
kỷ, Huế đã trở thành một quần thể di tích kiến trúc và thắng cảnh vĩ đại, tổng
thể di tích này đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.<br />
Kinh thành Huế - tổng thể kiến trúc của Cố đô Huế được xây dựng trên một mặt bằng
diện tích hơn 500ha và được giới hạn bởi 3 vòng thành theo thứ tự ngoài lớn,
trong nhỏ: Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành.<br />
Tổng thể kiến trúc này dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng hai hòn đảo nhỏ
trên sông Hương là Cồn Hến và Dã Viên làm 2 yếu tố phong thuỷ rồng chầu hổ phục
(Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ Cố đô.<br />
Kinh Thành Huế do vua Gia Long xây dựng từ năm 1805 và sau này được vua Minh Mạng
tiếp tục hoàn thành vào năm 1832. Tại đó các vua triều Nguyễn đã cho xây dựng
khá nhiều thành quách, cung điện và các công trình của hoàng gia. Trải qua gần
200 năm khu kinh thành hiện nay còn hầu như nguyên vẹn với gần 140 công trình
xây dựng lớn nhỏ.<br />
Kinh thành hình vuông với chu vi 10km, cao 6,6m, dày 21m, gồm có 10 cửa để ra
vào. Xung quanh và ngay trên thành có thiết lập 24 pháo đài để phòng thủ. Ngoài
ra còn có một cửa phụ thông với Trấn Bình Ðài gọi là Thái Bình Môn.<br />
Hoàng Thành (Ðại Nội) nằm ở khoảng giữa kinh thành là nơi đặt các cơ quan cao
nhất của chế độ quân chủ và là nơi thờ tự các vua chúa đã quá cố. Hoàng Thành
có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600m, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung
quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào, riêng Ngọ Môn chỉ dành để cho vua đi.
Ðại Nội gồm có hơn 100 công trình kiến trúc đẹp được chia ra nhiều khu vực:<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN"><span style="font-family: VNI-Duff;">- </span></span><span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Từ Ngọ Môn đến Điện Thái Hoà: Nơi cử hành các lễ lớn của
triều đình. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN"><span style="font-family: VNI-Duff;">- </span></span><span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Triệu<b> </b>Miếu,
Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và Điện Phụng Tiên: Nơi thờ các vua chúa nhà
Nguyễn. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN"><span style="font-family: VNI-Duff;">- </span></span><span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Phủ Nội Vụ: Nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ
dùng cho hoàng gia. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN"><span style="font-family: VNI-Duff;">- </span></span><span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Vườn Cơ Hạ và Điện Khâm Văn: Nơi các hoàng tử học tập và chơi đùa. <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN"><span style="font-family: VNI-Duff;">- </span></span><span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Tử Cấm Thành: <o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Là vòng thành nằm
trong Hoàng Thành ngay sau lưng Điện Thái Hoà. Tử Cấm Thành dành riêng cho vua
và gia đình vua. Tử Cấm Thành được xây dựng năm 1804. Thành cao 3,72m xây bằng
gạch, dày 0,72m, chu vi khoảng 1.230m, phía trước và phía sau dài 324m, trái và
phải hơn 290m, bao gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ và có 7 cửa ra vào.
Ðại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua đi vào. Cần Chánh (nơi
vua làm việc hàng ngày). Càn Thành (nơi vua ở), Cung Khôn Thái (chỗ ở của Hoàng
Quý Phi). Duyệt Thị Ðường (nhà hát), Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua), Thái
Bình Lâu (nơi vua đọc sách)…<o:p></o:p></span></div>
<br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span lang="EN" style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: EN;">Ngoài ra Huế còn
nổi tiếng bởi khu lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn. Bảy lăng, mỗi lăng mang một
sắc thái riêng nhưng đều là những kỳ công tạo tác của con người phối hợp với cảnh
trí thiên nhiên hùng vĩ tươi đẹp và thơ mộng của xứ Huế.<br />
Cố đô Huế với sông Hương, núi Ngự và các cung điện lâu đài, lăng tẩm, đền,
miếu, chùa chiền đã có hàng mấy trăm năm lịch sử giờ đây đang được nhân dân Việt
Nam cùng cộng đồng Quốc tế đóng góp công sức và tiền của để tôn tạo tu bổ giữ
cho kiến trúc cố đô Huế mãi mãi là di sản văn hoá của nhân loại.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comtp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4498 107.562350116.4498 107.5623501 16.4498 107.5623501tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-74881531612689121792014-09-09T09:54:00.001-07:002014-09-09T09:54:57.552-07:00Chùa Thiên Mụ<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
</div>
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-GfsjpxeQXCw/VA8wthUd57I/AAAAAAAADYQ/jzRaq4YN84k/s1600/db17.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" src="http://2.bp.blogspot.com/-GfsjpxeQXCw/VA8wthUd57I/AAAAAAAADYQ/jzRaq4YN84k/s1600/db17.gif" height="150" width="200" /></a><br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Đến nay Huế vẫn
còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa, trong đó có nhiều ngôi chùa là những danh lam
thắng cảnh nổi tiếng, được xếp vào hàng quốc tự. Nói đến chùa Huế nhất định phải
nói đến một ngôi chùa nổi tiếng nhất của đất cố đô: chùa Thiên Mụ. Chùa Thiên Mụ
là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành
phố Huế khoảng 5km về phía tây.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Chùa Thiên Mụ
chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng - vị chúa
Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Đây có thể nói là ngôi chùa cổ nhất của Huế.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Chùa Thiên Mụ
chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên - Nguyễn Hoàng. Dưới thời
chúa Quốc - Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật
giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Năm 1710, chúa Quốc cho
đúc một chiếc chuông lớn, nặng trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một
bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa Quốc lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục
công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà
Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền... mà nhiều công trình trong
số đó ngày nay không còn nữa. Chúa Quốc còn đích thân viết bài văn, khắc vào
bia lớn (cao 2,6m, rộng 1,2m) nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở
đây, việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1.000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu
Tàng Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm
- người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng
Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng
tuyệt đẹp.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Trước thời điểm
khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu,
là một ngôi chùa của người Chăm. Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng
vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem
xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang
sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông
Hương ngược lên phía đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng
nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại,
ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Theo truyền thuyết, người dân địa phương cho
biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi,
nói với mọi người: “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí,
làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh”. Vì thế, nơi đây còn được gọi là
Thiên Mụ Sơn. Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với
ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi
chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là “Thiên Mụ”.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Dựa theo huyền
thoại, đồng thời căn cứ hình dạng Hán tự từng ghi trên bao tài liệu cấu tạo bằng
nhiều chất liệu, đủ khẳng định rằng trong tên Thiên Mụ, ngữ tố “Thiên” có nghĩa
là “trời”. Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con nối dõi, nhà vua
sợ chữ “Thiên” phạm đến Trời nên cho đổi từ “Thiên Mụ” thành “Linh Mụ” (“Bà mụ
linh thiêng”). Vấn đề kiêng cữ như đã nêu chỉ diễn tiến từ năm Nhâm Tuất (1862)
cho tới năm Kỷ Tỵ (1869). Sau đó, người dân gọi cả hai tên: chùa Thiên Mụ và
chùa Linh Mụ. Vì rằng từ “Linh” đồng nghĩa với “Thiêng”, âm người Huế khi nói
“Thiên” nghe tựa “Thiêng” nên khi người Huế nói “Linh Mụ”, “Thiên Mụ” hay
“Thiêng Mụ” thì người nghe đều hiểu là muốn nhắc đến chùa này. Một số người còn
đặt tên cho chùa là Tiên Mụ (“Bà mụ thần tiên”).Với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô
được mở rộng ngay từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ
Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã từng được dùng làm
đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết
nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn. Năm 1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” của
bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua
Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm một ngôi tháp
bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng 2 tấm
bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tháp Phước Duyên
là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21m, gồm 7 tầng,
được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật.
Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ
tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp
luân (bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo. Pháp luân đặt trên đình Hương
Nguyện quay khi gió thổi). Trận bão năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều
công trình bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn
còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái cho xây dựng lại, nhưng chùa không còn
được to lớn như trước nữa. Hai bên tháp có hai nhà tứ giác, đặt hai tấm bia đời
Thiệu Trị. Sâu vào bên trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và một nhà để
quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Trong khuôn viên
của chùa Thiên Mụ là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hàng ngày. Ở
đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam là Đào Tấn được đặt gần chiếc
xe ô tô - di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự
thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm
1963. Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì
nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt
động ích đạo giúp đời.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Chùa Thiên Mụ được
xếp vào hai mươi thắng cảnh đất Thần kinh với bài thơ “Thiên Mụ chung thanh” do
vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng gần cổng chùa. Qua nhiều đợt
trùng tu lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như tháp Phước Duyên, điện Đại
Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm... cùng bia đá, chuông đồng, chùa Thiên Mụ
ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quí giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả
về nghệ thuật. Những bức tượng Hộ Pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng
Tam Thế Phật... hay những hoành phi, câu đối ở đây đều ghi dấu những thời kỳ lịch
sử vàng son của chùa.<o:p></o:p></span></div>
<br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Chùa Thiên Mụ là
niềm tự hào của người dân xứ Huế và là một ngôi quốc tự nổi tiếng ở nước ta.
Hòa quyện với phong cảnh của một miền sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ đã đi
vào tâm thức của người dân bản xứ, tô đẹp cho Huế, gắn bó với Huế và là một bộ
phận không thể tách rời của Huế.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comChùa Thiên Mụ, Kim Long, Hương Long, tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4537395 107.5447649999999816.4537395 107.54476499999998 16.4537395 107.54476499999998tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-61074520998309242802014-09-09T09:42:00.000-07:002014-09-09T09:42:50.603-07:00Cầu Tràng Tiền<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-QM1pCsNNncc/VA8tvVo5usI/AAAAAAAADYA/lpVQ5rMk-1A/s1600/db16.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-QM1pCsNNncc/VA8tvVo5usI/AAAAAAAADYA/lpVQ5rMk-1A/s1600/db16.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Cầu Tràng Tiền gồm
6 vài, mỗi vài dài 66 thước 8 tấc 5 phân (mỗi thước mộc ta bằng 0,425 mét); rộng
6 thước 2 tấc. Tổng chiều dài cây cầu là 401 thước 1 tấc. Cầu có 12 nhịp được
thiết kế theo kiểu kiến trúc Gothique; mỗi nhịp có thành hình bán nguyệt. Các
nhịp kế tiếp nhau làm thành một dải sóng đều đặn, mềm mại như làn nước sông Hương.
Với kiểu kiến trúc cầu khá đẹp, hài hòa lại ở ví trí trung tâm thành phố càng
làm cho dòng Hương Giang và thành phố Huế thêm duyên dáng, thơ mộng.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">
Cầu Tràng Tiền ban đầu làm bằng gỗ, còn mặt cầu thì lát bằng ván gỗ lim. Đến
sau cơn bão lớn năm Giáp Thìn(1904) đã làm sập một vài sụp đổ xuống ngay tại chỗ,
hai vài bay xuống sông ngang chợ Đông Ba, còn một vài bị cuốn trôi về tận Bãi
Dâu. Qua trận bão, cầu bị hư hỏng nặng. Sau 2 năm (1904 – 1906), cầu Tràng Tiền
được sửa chữa lại bằng sắt và xi măng rất kiên cố. Đến năm 1938, cầu được mở rộng
thêm hai bên cho khách bộ hành đi lại thuận lợi thoáng mát. Trong thời kháng
chiến chống Pháp, cầu bị đánh sập hai vài để ngăn chặn bước tiến quân của giặc
sang sông đánh chiếm kinh thành Huế. Sau đó cầu được sửa chữa lại với hình dáng
như cũ nhưng với ba vài sắt hoàn toàn mới. Thời chiến tranh (1968), cầu đã bị sập
2 vài. Sau đó, cầu được Hãng Eiffel chịu trách nhiệm sửa lại để lưu thông,
nhưng có một vài chưa được thay thế. Mãi tới năm 1990-1991, Công ty Cầu 1 Thăng
Long đảm nhận tiếp tục sữa chữa lại cầu Tràng Tiền. Riêng đối với vài số 4 của
cầu này thì do tập đoàn Baudin Chateauneuf và hãng sơn Présiozo của Pháp lo liệu.
Ngày 19-5-1995, lễ thông cầu được tổ chức trọng thể vào đúng ngày sinh nhật của
Bác Hồ. Như vậy, cầu Tràng Tiền đã được tu sữa lại toàn bộ và nâng cấp độ vững
chắc hơn trước. Tuy cấu trúc cầu có thay đổi một số chi tiết về dầm, gá níu chằng,
nhưng hình dáng chiếc cầu vẫn đẹp như xưa.Về tên gọi chiếc cầu này cũng có thay
đổi qua từng thời kỳ. Ban đầu, cầu có tên là cầu Thành Thái, vì cầu được xây dựng
dưới thời vua Thành Thái thứ 9 (1897). Sau khi vua Thành Thái bị Pháp phế truất,
Pháp cho đổi tên cầu thành cầu Clémenceau (Cơ- lê măng- Xô) là tên vị Thủ tướng
nước Pháp có công trong Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Đến năm 1945, Nội các
Trần Trọng Kim cho đổi tên cầu này thành cầu Nguyễn Hoàng (vị chúa Nguyễn đầu
tiên tới trị vì xứ Đằng Trong này). Mặc dầu qua bao thăng trầm biến cố lịch sử,
chiếc cầu qua dòng Hương giang này đã mấy lần “thay tên, đổi họ”, nhưng dân
chúng xứ Huế và khắp nơi trong cả nước đều gọi tên cầu Tràng Tiền. Cái tên
thông dụng bao đời nay vẫn thấm sâu trong tâm thức của mọi người. Ngày xưa còn
gọi là Trường Tiền vì vị trí cầu nằm gần sát bờ sông Hương, cạnh xưởng đúc tiền
xu thời xa xưa (trường tiền là vùng đất trống rộng có xưởng đúc tiền).Chiếc cầu
lịch sử này đã bao phen bị phong ba bão táp của thiên tai và hư hại tàn phá của
chiến tranh. Cầu đã từng chứng kiến trước bao cảnh hưng vong, thăng trầm của đất
nước qua các thời đại. Cầu Tràng Tiền là thắng cảnh nổi tiếng đã đi vào thơ ca
dân gian xứ Huế từ bao đời nay và là đề tài vô tận của biết bao ca khúc trữ
tình; là biểu tượng của Huế xưa và nay.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Nếu ai có dịp
treo lên đỉnh núi Ngự Bình mà nhìn về cầu Tràng Tiền thì thấy đẹp vô cùng. Chiếc
cầu như nàng tiên cá trắng nõn uốn mình nằm vắt ngang sông Hương xanh biếc,
trong ngân. <o:p></o:p></span></div>
<br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Vào những đêm
trăng sáng, bóng dáng chiếc cầu cứ lung linh, lấp loáng dưới lòng sông như đùa
giỡn với ánh trăng. Thỉnh thoảng có những chiếc thuyền xuôi ngược được chèo lái
qua dưới gầm cầu tạo nên những làn sóng nước vỗ vào chân cầu nghe lao xao, êm dịu.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comtp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4498 107.562350116.4498 107.5623501 16.4498 107.5623501tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-31082370633846589742014-09-09T09:34:00.000-07:002014-09-09T09:34:34.385-07:00Núi Ngự Bình<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-dReo1Byuyr8/VA8ruOsA-mI/AAAAAAAADX4/7fmNHmvkq5k/s1600/db15.gif" imageanchor="1" style="clear: left; display: inline !important; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" src="http://2.bp.blogspot.com/-dReo1Byuyr8/VA8ruOsA-mI/AAAAAAAADX4/7fmNHmvkq5k/s1600/db15.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Núi Ngự Bình</span>
(còn gọi là Bằng sơn) cao 105 mét có hình dáng cân xứng và ấn tượng. Ở hai bên
Bằng Sơn là hai ngọn núi nhỏ tên là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Sau khi quan sát
thấy Bằng Sơn trông giống như một tấm bình phong, <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">nhà Nguyễn</span>
đã quyết định chọn Huế làm nơi xây dựng Kinh thành. Vua <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Gia Long</span> đã đồng ý với những
<span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">thầy địa lý</span> chọn ngọn núi
đó làm án thờ phía trước của của hệ thống tường bao chắc chắn có chức năng bảo
vệ thành, và đổi tên nó là Ngự Bình.<b><i><o:p></o:p></i></b></span></div>
<br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Cùng với sông
Hương, núi Ngự Bình là một món quà vô giá thứ hai thiên nhiên dành cho Huế.
Sông núi bổ sung cho nhau tạo nên một cảnh quan sông núi tuyệt đẹp cho Huế. Từ
lâu, núi Ngự và sông Hương đã được coi là những biểu tượng của Huế, và mọi người
cũng thường gọi Huế là “Vùng đất của sông Hương và núi Ngự”.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comnúi Ngự Bình, An Cựu, tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4419676 107.5956383999999816.4419676 107.59563839999998 16.4419676 107.59563839999998tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-28458504536727045642014-09-09T09:26:00.002-07:002014-09-14T18:58:26.506-07:00Sông Hương<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://2.bp.blogspot.com/-vJfuKEob2j4/VA8qNqXLq_I/AAAAAAAADXw/d20XChI4vgg/s1600/db14.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://2.bp.blogspot.com/-vJfuKEob2j4/VA8qNqXLq_I/AAAAAAAADXw/d20XChI4vgg/s1600/db14.gif" height="149" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Sông Hương có hai
nguồn chính và đều bắt nguồn từ </span><span style="color: windowtext; font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">dãy núi Trường Sơn</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">. Dòng chính của Tả Trạch dài
khoảng 67 km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, ven khu vực </span><span style="color: windowtext; font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">vườn quốc gia Bạch Mã</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> chảy theo hướng tây
bắc với 55 </span><span style="color: windowtext; font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">thác nước</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> hùng vĩ, qua thị trấn Nam Đông rồi
sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba </span><span style="color: windowtext; font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Bằng Lãng</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> (khoảng 3 km về
phía bắc khu vực </span><span style="color: windowtext; font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">lăng Minh Mạng</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">). Hữu Trạch dài khoảng 60 km là
nhánh phụ, chảy theo hướng bắc, qua 14 thác nguy hiểm và vượt qua </span><span style="color: windowtext; font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">phà Tuần</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> để tới ngã ba Bằng
Lãng, nơi hai dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương.</span><b style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"><i> </i></b><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Từ Bằng Lãng đến </span><span style="color: windowtext; font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">cửa sông Thuận An</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">, sông
Hương dài 33 km và chảy rất chậm (bởi vì mực nước sông không cao hơn mấy so với
mực nước biển). Khi chảy quanh dọc chân </span><span style="color: windowtext; font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">núi Ngọc Trản</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">, sắc nước
sông Hương xanh hơn – đây là địa điểm Điện Hòn Chén. Tại đây có một </span><a href="file:///F:/w/index.php?title=V%E1%BB%B1c&action=edit&redlink=1" style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;" title="Vực (trang chưa được viết)"><span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">vực</span></a><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> rất sâu.</span></div>
<br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Sông Hương rất đẹp
khi chiêm ngưỡng nó từ nguồn và khi nó chảy quanh các chân núi, xuyên qua các
cánh <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">rừng</span> rậm và mang theo
hương thơm của <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">hệ thực vật</span> <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">nhiệt đới</span>.
Con sông chảy chậm qua những làng mạc xanh tươi và râm mát như Kim Long, Nguyệt
Biều, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Nam Phổ</span>, Bao Vinh và hoà lẫn
vào với hương thơm của hoa cỏ Huế... Con sông với sắc xanh lung linh, trong trẻo
như một <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">viên ngọc</span> dưới ánh mặt trời.
Nó từng là nguồn cảm xúc của bao thế hệ du khách khi họ đi thuyền dọc theo sông
Hương để nhìn ngắm phong cảnh nên thơ và lắng nghe những điệu <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">ca Huế</span> truyền thống trong
đêm tĩnh mịch.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comsông Hương, Việt Nam16.5603602 107.6304104999999316.5603602 107.63041049999993 16.5603602 107.63041049999993tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-59764626984314202082014-09-09T05:30:00.002-07:002014-09-09T05:31:26.727-07:00TRƯỜNG QUỐC HỌC HUẾ<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-xmC5sGOGkGA/VA7yrfVIubI/AAAAAAAADXk/7Hw4GZ_LMFE/s1600/db13.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-xmC5sGOGkGA/VA7yrfVIubI/AAAAAAAADXk/7Hw4GZ_LMFE/s1600/db13.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Trường </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Quốc Học</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> là một ngôi trường nổi tiếng ở
</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Huế</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">. Trường được thành lập
vào ngày </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">23
tháng 10</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> năm </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">1896</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> theo chỉ dụ
của vua </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Thành
Thái</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> giao cho </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Ngô Đình Khả</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> làm trưởng giáo và được </span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Toàn quyền Đông Dương</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> ký quyết định ngày 18
tháng 11 năm 1896.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Trường Quốc học
có biệt tích là trường trung học đệ nhất cấp đầu tiên ở Huế. Ngay từ lúc sáng lập,
giáo trình được dạy bằng tiếng Việt cùng với tiếng Pháp.<sup><o:p></o:p></sup></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Trường đã đổi tên
qua nhiều thời kỳ: École Primaire Supérieure, tức Trường Cao đẳng Tiểu học nhưng
thường gọi là Quốc Học (1896-1936), Trung học Khải Định
(1936-1954), Trung học Ngô Đình Diệm (1955-1956) và được trở về với tên gốc
vào năm 1956 cho đến nay. Tên lúc mới thành lập là "Pháp Tự Quốc Học Trường
Môn", đến nay vẫn còn bảng ghi tên đó được lưu tại Phòng Truyền thống của
trường.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Quốc Học được
thành lập trên nền của Dinh Thủy Sư (nơi huấn luyện binh lính đường thủy của
quân đội triều Nguyễn), ban đầu trường được xây dựng theo kiểu cũ, nhà tranh
vách đất, tổng cộng có 3 tòa nhà. Trường Quốc Học hiện nay là công trình được
xây dựng theo kiểu kiến trúc Pháp, được xây dựng chủ yếu trong thời gian sau
này.<o:p></o:p></span></div>
<br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Nguyễn Sinh Cung
(Hồ Chí Minh) từng là học sinh của trường, Bác học tại Quốc Học năm 1908, tham
gia nhiều vào các phong trào của sinh viên và học sinh chống Pháp vào thời gian
đó. Tháng 9 năm 1989, trong sân
trường có đặt bức tượng Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Sinh Cung) bằng thạch
cao ở giữa sân trường để tưởng nhớ người học trò này. Bức tượng hiện nay đã được
phủ đồng.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comtp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4498 107.562350116.4498 107.5623501 16.4498 107.5623501tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-87989956664842604142014-09-09T04:51:00.002-07:002014-09-15T01:53:35.097-07:00Ẩm Thực Huế<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-3j-l0Swkeic/VA7kgM3h9II/AAAAAAAADWo/o5CH9jT9q0E/s1600/db11.gif" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://3.bp.blogspot.com/-3j-l0Swkeic/VA7kgM3h9II/AAAAAAAADWo/o5CH9jT9q0E/s1600/db11.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;">Ẩm thực Huế</span><span style="font-family: Arial, sans-serif; line-height: 115%;"> là cách gọi của
phương thức chế biến món ăn, nguyên lý chế biến, trang trí, phong cách dọn ăn,
mời uống và những thói quen ăn uống nói chung của người Huế, Việt Nam. Theo thời
gian, ẩm thực Huế chịu ảnh hưởng của những luồng văn hoá đến từ những
cộng đồng dân cư khác nhau và những đặc thù của xứ sở nên mang những sắc thái
riêng trở thành một phần của văn hóa Huế, văn hoá Việt Nam.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ẩm thực Huế được
biết đến qua thời gian bởi những gia đình có truyền thống nấu nướng, những đầu
bếp giỏi và những làng nghề nổi tiếng, với những món đặc sản địa phương.<i> </i>Làng Kim Long với các loại bánh in,
bánh gấc, bánh phu thê, bánh ít đen...; làng <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">bánh ướt</span>
chợ Thông; làng <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">bánh gói</span> chợ Cầu.<o:p></o:p></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Làng Nam Phổ với
món <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">bánh canh Nam Phổ</span>, làng bún
Vân Cù với những sợi bún trong và mềm đã theo chân người làng toả đi từ tinh mơ
để phục vụ bữa điểm tâm cho người dân Huế.<i><o:p></o:p></i></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tại hội chợ Huế
Xuân 2005, một hội thảo về văn hóa ẩm thực Huế, truyền thống và hiện đại, đã được
tổ chức trong ba ngày 15, 16, 17 tháng 1 năm 2005 với sự tham dự của đông đảo
nhà Huế học, nhà nghiên cứu văn hóa Huế, nhà văn, doanh nhân, giám đốc các công
ty du lịch, khách sạn, các chủ nhà hàng tư nhân nổi tiếng ở Huế. Hội thảo cho
thấy món ngon xứ Huế là một kết hợp hài hòa món ngon Chăm cổ với món ngon Việt
cổ, món ngon Mường cổ, món ngon dân gian Huế lâu đời và nhiều món ngon nhất cả
nước, được đưa về Phú Xuân Huế dâng chúa, tiến vua. Theo thống kê, <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Việt Nam</span>
có khoảng 1.700 món ăn thì xứ Huế có tới 1.300 món gồm: món ăn dân gian, món ăn
cung đình và món ăn chay. <a href="https://www.blogger.com/null" name=".E1.BA.A8m_th.E1.BB.B1c_cung_.C4.91.C3.A"></a><o:p></o:p></span><br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-d7RTjwTymL8/VBao3EcoIuI/AAAAAAAADuI/nKO4IhkvOTU/s1600/DB%2B%E1%BA%A8M%2BTH%E1%BB%B0C%2BHU%E1%BA%BE.gif" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-d7RTjwTymL8/VBao3EcoIuI/AAAAAAAADuI/nKO4IhkvOTU/s1600/DB%2B%E1%BA%A8M%2BTH%E1%BB%B0C%2BHU%E1%BA%BE.gif" height="480" width="640" /></a></div>
</div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Ẩm thực Huế có một
chiều sâu mang đậm nét bản sắc của một vùng đất từng là kẻ chợ, thanh lịch, nhẹ
nhàng và tùng tiệm. Người Huế ăn uống gắn liền với ba tiêu chí là: rẻ, ngon và
nhất là phải đẹp, người Huế đã chia ăn uống thành ba bậc: khẩu thực, nhãn thực
và tâm thực. "Khẩu thực" là cách ăn bằng miệng, để tồn tại,
"nhãn thực" là thưởng thức bằng mắt và "tâm thực", nghĩa là
ăn bằng cả tấm lòng mình.<i> <o:p></o:p></i></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Người Huế ý thức
rằng, nấu ăn phải nấu bằng cái tâm, do đó quy trình chế biến món ăn phải thể hiện
sự đồng bộ từ khâu lựa chọn thực phẩm, sơ chế, ướp tẩm gia vị, chế biến qua nhiệt...để
được một món ăn hoàn hảo.<i><o:p></o:p></i></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Việc sơ chế của
người Huế trong nấu nướng nhằm đảm bảo những yêu cầu tối thiểu, là phải loại bỏ
những phần kém chất lượng, lưu dụng phần ngon; loại bỏ những thực phẩm nhiễm bẩn;
bảo lưu tối đa các chất dinh dưỡng và một phần quan trong nữa là cắt thái đẹp,
bảo lưu màu sắc tăng tính thẩm mỹ.<i><o:p></o:p></i></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Một số kinh nghiệm
của người Huế trong việc sơ chế thực phẩm như là đối với cá, sau khi đánh vảy,
móc măng, làm ruột...thường rửa cá qua <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">rượu</span> <span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">gừng</span> để khử tanh, khử nhớt và lau khô bằng
vải sạch trước khi tẩm ướt. Tôm cho dù có lột vỏ hay không nhưng phải nhớ rút bỏ
đường gân đen ở lưng để loại bỏ mùi tanh, lươn thì khi sơ chế phải làm sạch nhớt
và đừng quên loại bỏ ruột.<i> </i>Đối với
rau xanh, sạch thì không nên ngâm lâu trong nước vì mất chất, đối với rau củ
khi cắt gọt phải ngâm sâu trong nước để tránh bị tối màu. Các loại hạt khô phải ngâm nước cho trương nở giúp nấu
nhanh và loại bỏ hạt sâu, mọt hoặc sượng...<i><o:p></o:p></i></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Cơm hến</span><o:p></o:p></span></b></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-gf2LK0nMWqg/VA7pWWKhBlI/AAAAAAAADW0/RvMZWwIR-bQ/s1600/c%C6%A1m%2Bh%E1%BA%BFn.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-gf2LK0nMWqg/VA7pWWKhBlI/AAAAAAAADW0/RvMZWwIR-bQ/s1600/c%C6%A1m%2Bh%E1%BA%BFn.jpg" height="133" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Cơm nguội với những
con hến nhỏ là vị chủ của cơm hến, hến được xào kèm theo bún tàu (miến), măng
khô và thịt heo thái chỉ. Món thứ ba trong cơm hến là rau sống làm bằng thân
chuối hoặc bắp chuối xắt mảnh như sợi tơ, trộn lẫn với môn bạc hà, khế và rau
thơm thái nhỏ, có khi còn điểm thêm những cánh bông vạn thọ vàng, nhìn tươi mắt
và có thêm mùi hương riêng. Nước luộc hến được múc ra từ chiếc nồi bung bốc
khói nghi ngút bằng chiếc gáo làm bằng sọ dừa xinh xắn, cho vào đầy một cái tô
đã có đủ cơm nguội, hến xào, rau sống và được gia thêm đủ vị đồ màu. Nước hến
có giã thêm gừng, màu trắng đùng đục. Bộ đồ màu của cơm hến gồm 10 vị: ớt
tương, ớt màu, ruốc sống, bánh tráng nướng bóp vụn, muối rang, hạt đậu phộng
rang mỡ giã hơi thô thô, mè rang, da heo rang giòn, tóp mỡ, vị tinh.<i><o:p></o:p></i></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Bún Huế</span><o:p></o:p></span></b></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://1.bp.blogspot.com/-MOPr4xmi4-I/VA7pb9xDRvI/AAAAAAAADW8/iKI2Xo_Lrlg/s1600/b%C3%BAn%2Bhu%E1%BA%BF.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://1.bp.blogspot.com/-MOPr4xmi4-I/VA7pb9xDRvI/AAAAAAAADW8/iKI2Xo_Lrlg/s1600/b%C3%BAn%2Bhu%E1%BA%BF.jpg" height="123" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Con bún làm bằng
gạo xay có pha ít bột lọc nên con bún trắng hơi trong và săn hơn, con bún Huế lại
to hơn các nơi khác. Một tô bún giò hay bún bò hấp dẫn thực khách chính là nhờ
chất nước ngon ngọt và thơm. Nước bún nấu với những miếng móng giò heo mềm nhừ,
với một chút màu trắng của những cọng giá và màu xanh của rau sống, thêm gia vị
để vừa cay, vừa nóng, vừa nghe vị ngọt của nước bún của thịt.<i><o:p></o:p></i></span><br />
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span>
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span><br />
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><span style="color: windowtext; text-decoration: none; text-underline: none;">Bánh bèo</span><o:p></o:p></span></b></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-0-kXJ0ASJ7g/VA7pjfKFCNI/AAAAAAAADXE/a1axbe7rHn8/s1600/banh%2Bbeo%2Bhue.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://3.bp.blogspot.com/-0-kXJ0ASJ7g/VA7pjfKFCNI/AAAAAAAADXE/a1axbe7rHn8/s1600/banh%2Bbeo%2Bhue.jpg" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Nguyên liệu làm
bánh chỉ là gạo xay thành bột mịn, đem trộn với nước, chờ vài phút để có độ dẻo
vừa phải, sau đó múc vào từng chén nhỏ, xếp vào vỉ đem hấp chín bằng hơi. Khi
bánh chín, cho thêm gia vị như: tôm giã thật nhỏ, một ít dầu béo thực vật rưới
lên chén bánh trước khi ăn. Nước chấm bánh bèo được nấu từ tôm tươi nên vừa có
vị ngọt, vừa béo.<i><o:p></o:p></i></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span></b>
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span></b>
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Bánh khoái<o:p></o:p></span></b></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-i8Vj6ukmAiI/VA7pqjxZzFI/AAAAAAAADXM/BuaqMCd2Gxs/s1600/banh-khoai-hue-3h-goi-tron-hon-xu-hue9(3).jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-i8Vj6ukmAiI/VA7pqjxZzFI/AAAAAAAADXM/BuaqMCd2Gxs/s1600/banh-khoai-hue-3h-goi-tron-hon-xu-hue9(3).jpg" height="133" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Bánh khoái đổ bằng
bột gạo xay đánh sệt với nước và lòng đỏ trứng, sau đó thêm tiêu, hành, mắm, muối,
tôm bóc vỏ, thịt bò nướng thái lát, mỡ thái lát nhỏ, giá sống. Khuôn bánh khoái
làm bằng gang hình tròn, to bằng hai bàn tay trẻ con có cán cầm. Khi nào có
khách ăn, nhà hàng mới bắc khuôn lên lò đổ bánh. Múc một muôi bột trứng đổ vào
khuôn nóng đã tráng mỡ, bột chín vàng rơm thì gắp một miếng thịt bò nướng, lát
mỡ nhỏ, một vài con tôm, ít giá bỏ vào một nửa phần bánh, dùng đũa lật phần
bánh còn lại úp lên thành hình bán nguyệt lật bánh cho vàng đều hai bên, xong
bày ra đĩa. Bánh ngon một phần nhờ nước lèo, được chế biến rất cầu kỳ với hàng
chục nguyên liệu như bột báng, gan lợn, mè (vừng), lạc rang...<i><o:p></o:p></i></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;"><br /></span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<b><span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Tôm
chua<o:p></o:p></span></b></div>
<a href="http://1.bp.blogspot.com/-uIUb-_LTai8/VA7pxtBeYUI/AAAAAAAADXU/kVkghw1p4oo/s1600/tomchua%2B3.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; display: inline !important; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" src="http://1.bp.blogspot.com/-uIUb-_LTai8/VA7pxtBeYUI/AAAAAAAADXU/kVkghw1p4oo/s1600/tomchua%2B3.jpg" height="133" width="200" /></a><br />
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">Được làm từ những
con tôm nước lợ tươi, tôm được ngắt đầu, rửa sạch, ngâm một lát trong rượu. Sau
đó vớt ra để ráo, trộn đều với các thứ phụ gia: riềng, tỏi, ớt đỏ, măng non,
xôi nếp, nước mắm ngon. Quá trình ủ tôm kéo dài từ 7-10 ngày, có thể chôn xuống
đất để giữ nhiệt độ ổn định cho quá trình lên men. Nhiệt độ càng ổn định, tôm
càng thơm, càng ngọt. Thưởng thức tôm chua phải có 3 thứ cơ bản đi liền nhau:
thịt heo phay (ba chỉ) thái mỏng-tôm chua-dưa giá. Ngoài ra còn có quả vả hoặc
chuối chát, khế chua thái mỏng cùng rau quế, ớt tươi.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comtp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4498 107.562350116.4498 107.5623501 16.4498 107.5623501tag:blogger.com,1999:blog-1632477428255190436.post-25324366017710844142014-09-09T03:49:00.000-07:002014-09-09T03:49:29.864-07:00Tính Cách Người Huế<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-8SAZuOEzEV4/VA7a_0_33uI/AAAAAAAADWc/oGA1fycadBk/s1600/db10.gif" imageanchor="1" style="clear: left; display: inline !important; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" src="http://4.bp.blogspot.com/-8SAZuOEzEV4/VA7a_0_33uI/AAAAAAAADWc/oGA1fycadBk/s1600/db10.gif" height="150" width="200" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI;">" Con làm rứa,
mạ buồn." hoặc " Em ơi, em về đi, em không về chị buồn đó!" . Đấy
là những lời các mẹ, các chị la em, nghe đến kỳ lạ, không thét lên mà chỉ như
năn nỉ. Bởi vậy mà những đứa con xứ Huế, rất sợ mình có lỗi, có lỗi thì chị buồn,
mạ buồn... <br />
Người Huế thường giấu kín những khó khăn riêng của mình trước bạn bè, không để
điều to tiếng, chuyện buồn đối với khách khứa láng giềng. Khi nhà có khách, có
đong gạo nấu cơm cũng phải nhẹ tay, đừng để khách biết mình đong mấy lon cũng
không để khách biết nhà mình hết gạo. Nếu có hết gạo thì đi cửa sau sang nhà hàng
xóm mượn tạm. Vợ chồng có lỡ cãi nhau, có khách vào phải lau khô nước mắt, nét
mặt phải trở lại bình thường. <br />
Tính cách người Huế, được kết tinh và phát lộ qua ca dao, dân ca Huế, nó buồn và
sâu lắng. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhận xét rất tinh tế: dân ca Huế là
dân ca của sông Hương, dân ca của ban đêm. Nếu ca Huế là lời ca giao đãi của
người con gái chèo đò với những người bạn đang chèo những con đò xuôi ngược với
những ai đó trên bờ sông, thì Lý Huế là lời tâm tình của những con người cùng
chung một con đò với ngổn ngang tâm trạng: " Trước bến Văn Lâu, ai ngồi,
ai câu, ai sầu, ai thảm, ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai mong" hay "
Anh về ngoài Bắc lâu vô, vẽ tranh hoạ đồ để lại cho em." <br />
Khi nói đến tính cách người Huế ta thường nói tới người phụ nữ Huế? bởi một lẽ,
tính cách người phụ nữ người mẹ, người chị có ảnh hưởng rất lớn tới tính cách
những người con, người em (trong đó có cả nam giới). <br />
Người đàn ông Huế thường ít lời, trầm tư, ôn hoà, trân trọng đời sống nội tâm và
có phần đa nghĩ. <br />
Người Huế có văn hoá ẩm thực rất phong phú và kiểu cách. Cái bánh bột lọc trong
suốt thấy rõ con tôm ở trong, nhân rõ nét hoa văn của cái đĩa đựng nó là sự
nâng cao từ cái " péng lá" của người Việt cổ, người Mường ngày nay.
Cũng như tôm chua Huế, có gốc tích từ Gò Công Nam Bộ, thịt luộc phải thái thật
mỏng, khế chua xếp thật đẹp, các món ăn phải bày trên bát đĩa nho nhỏ, đơm cơm
không quá đầy... <br />
Sáu tháng mưa dầm, mưa đến " trắng trời" thì thực phẩm biển, núi đều
cạn, phải chế biến món ăn như thế nào, đòi hỏi người nội trợ Huế, thật khéo léo
để những người thân ăn thấy ngon miệng. Và một đức tính của người Huế trong ẩm
thực là các món đều phải thật nóng, có vị cay, tanh, chát... <br />
Trong cái mặc của người Huế, có thể thấy nét ảnh hưởng lối mặc cung đình. Trước
đây, người phụ nữ Huế tiếp khách phải mặc áo dài, ra chợ dù phải gánh rau trên
vai, gánh cơm hến cũng phải mặc áo dài. Với áo dài tím Huế, áo trắng nữ sinh Huế,
chiếc nón bài thơ đã thành đối tượng của thi ca, nhạc, hoạ,… <br />
Huế ở tâm điểm của miền trung đất nước lại có thêm thời kỳ hơn 200 năm là trung
tâm chính trị của nhà nước phong kiến, từng thu hút nhân tôi, vật lực, giá trị
văn hoá của cả nước. Huế có một khí hậu cực kỳ khắc nghiệt, nắng đến khô cằn mà
khi mưa thì dầm dề, triền miên, khi thì xối xả, bởi vậy mà con người Huế yêu
thiên nhiên đến vô cùng. Nhưng cũng chính mưa nhiều, nên người Huế có cảm giác
cô đơn, cảm giác buồn. Điều đó có thể là nét nhược điệu trong tính cách người
Huế. Nhưng đó cũng chính là yếu tố mà người ta không thể không nhắc đến khi nói
tới tính cách Huế.<o:p></o:p></span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/17500235657977516421noreply@blogger.comtp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam16.4498 107.562350116.4498 107.5623501 16.4498 107.5623501