-
Giới thiệu
khái quát
Lăng Gia Long hay
Thiên Thọ Lăng nằm trong dãy núi Thiên Thọ, thuộc xã Hương Thọ, huyện Hương
Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách trung tâm Tp. Huế 16km.
Lăng Gia Long là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Kiến trúc lăng
có vẻ đơn sơ nhưng hoành tráng.
Ðến thăm lăng Gia Long, du khách có thể đi thuyền theo sông Hương khoảng 18km rồi
cập bến lăng, hoặc đi theo đường bộ chừng 16km, xuống bến đò Kim Ngọc, đi thêm
vài cây số nữa thì tới.
Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn, nhỏ, trong đó có Ðại
Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của
cả quần sơn này.
Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn tất. Từ bờ sông
Hương đi vào lăng có con đường rộng, hai bên trồng thông và sầu đông cao vút,
xanh um, tạo ra một không khí trong mát, tĩnh mịch. Hai cột trụ biểu uy nghi nằm
ở ngoài cùng, báo hiệu khu vực lăng.
Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng, rộng lớn. Trước có ngọn Ðại
Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu án. Bên trái có 14 ngọn núi làm
"tả thanh long" và bên phải có 14 ngọn làm “hữu bạch hổ”.
Tổng thể lăng
chia làm 3 khu vực:
- Phần chính giữa là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên
Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân chầu với các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế
là Bửu Thành ở đỉnh đồi.
-
Bên phải khu lăng là khu vực tẩm điện với điện Minh Thành
thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất
- Bên trái khu lăng là Bi Ðình, nay chỉ còn một tấm bia lớn
ghi bài văn bia Thánh đức thần công của vua Minh Mạng ca ngợi vua cha, được chạm
khắc tinh tế và sắc sảo.
Lăng Gia Long là
một bức tranh tuyệt tác về sự phối trí giữa thiên nhiên và kiến trúc. Vị vua đầu
tiên của nhà Nguyễn
yên nghỉ trong một không gian tĩnh lặng và đầy chất thơ.
Tiểu sử vua Gia
Long
Nguyễn Phúc Ánh, tên húy là Chủng, sinh năm Nhâm (1762), con thứ ba của chúa Nguyễn
Phúc Luân. Năm 1773, Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 12 tuổi, theo chúa
Nguyễn Phúc Thuần vào Quảng Nam. Mùa thu năm Ðinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Thuần
tử trận, Nguyễn Phúc Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu, rồi sau chạy sang ẩn
náu nhờ bên đất Xiêm.
Tháng 7/1792, vua Quang Trung mất, con là Quang Toản còn ít tuổi, Nguyễn Ánh tổ
chức tấn công và đến tháng 7/1802, Nguyễn Ánh diệt xong nhà Tây Sơn lên ngôi
hoàng đế, niên hiệu là Gia Long đóng đô tại thành Phú Xuân (Huế) và đặt tên nước
là Việt Nam.
Lần đầu Gia Long quản lý một nước Việt Nam thống nhất từ Bắc chí Nam, từ Lạng
Sơn đến Hà Tiên, Gia Long chia cả nước làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở
ra gọi là Bắc thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn); từ Bình Thuận trở
vào gọi là Gia Ðịnh thành gồm 5 trấn; ở quãng giữa là các trấn độc lập: Thanh
Hoá, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Ðịnh, Phú Yên, Bình Hoà, Bình Thuận, đất kinh kỳ
đặt 4 doanh: Trực Lệ Quảng Ðức Doanh (tức Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng
Bình doanh, Quảng Nam doanh.
Ðể tránh lộng quyền, Gia Long không đặt chức Tể tướng, triều đình chỉ có 6 bộ:
Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các thượng thư đứng đầu và có tả hữu tham tri,
tả hữu thị lang giúp việc. Ở trong cung, không lập ngôi Hoàng hậu, chỉ có Hoàng
Phi và các cung tần.
Năm 1815, bộ “Quốc triều hình luật” gồm 22 quyển với 398 điều luật đã được ban
hành.
Ngày Ðinh Mùi tháng 12 năm Kỷ Mão (1819), Gia Long mất, thọ 59 tuổi, ở ngôi
chúa 25 năm, ở ngôi vua 17 năm.
-
Quá trình xây dựng Lăng
Cũng vì quá sâu sắc
với công trình xây cất “ngôi nhà vĩnh
cửu” của mình mà có lần suýt nữa, Gia Long đã thiệt mạng trong một tai nạn
ở công trường. Một trận gió làm sập ngôi nhà mà vua đang trú ngụ, vua Gia Long
tuy đã ẩn trong một cái hố nhưng vẫn bị thương ở trán, mí mắt và bị dập chân do
một thanh xà rơi trúng. Hai hoàng tử thứ bảy và thứ tám là Tấn và Phổ bị trọng
thương, nhiều người khác bị chết. Gia Long không trừng phạt các quan lại thi
công, ngược lại đã cấp thuốc men để chạy chữa cho họ, cấp phát 500 quan tiền và
500 tiêu chuẩn gạo cho dân làng Định Môn, gần nơi xây dựng
lăng.
-
Giá trị
Lăng Gia Long là
một bức tranh trác tuyệt về sự phối trí giữa thiên nhiên và kiến trúc, trong
đó, thiên nhiên là yếu tố chính tạo nên nét hùng vĩ của cảnh quan. Đến thăm
lăng, du khách được thả mình trong một không gian tĩnh lặng nhưng đầy chất thơ
để suy ngẫm về những thành bại của cuộc đời mình cũng như vinh nhục của ông vua
đầu triều Nguyễn. Dù hết sức cố gắng của trung tâm bảo tàng di tích cố đô Huế
nhưng xem ra di tích không mấy thu hút khách tham qua , một phần do điều kiện
xa xôi, một phần giá trị về mặt kiến trúc còn thua kém các lăng Tự Đức
và Lăng Khải Định và lăng Minh Mạng
nên thật sự chưa thu hút du khách.
-
Miêu tả chi tiết
-
Khu Lăng Tẩm
Lăng tẩm nhà vua
nằm trên một quả đồi bằng phẳng rộng lớn. Trước có ngọn Đại Thiên Thọ án ngữ,
sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm. Bên trái và bên phải, mỗi bên có 14 ngọn núi là
“Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”. Tổng thể lăng chia làm 3 khu vực:
-
Khu Lăng Mộ
Phần chính giữa
là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân chầu với
các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế là Bửu Thành ở đỉnh đồi. Bên trong
Bửu Thành có hai ngôi mộ đá, dạng thạch thất, được song táng theo quan niệm “Càn Khôn hiệp đức” - một hình ảnh đẹp
của hạnh phúc và thủy chung.Bên phải khu lăng là khu vực tẩm điện với điện Minh Thành là trung
tâm. Điện Minh Thành được dùng để thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất. Minh
Thành nghĩa là “sự hoàn thiện rực rỡ”. Cũng có một cách giải thích khác là
“hoàn thành vào ngày mai”, bởi người ta cho rằng: “Sườn của điện này chưa có
sơn son thếp vàng và chạm khắc còn đơn giản” (theo L. Cadière). Bên trong điện
Minh Thành, ngày trước có thờ nhiều kỷ vật gắn bó với cuộc đời chinh chiến của
vua Gia Long như cân đai, mũ, yên ngựa.
-
Khu Bi Đình
Bên trái khu lăng
là Bi Đình, nay chỉ còn một tấm bia lớn ghi bài văn bia “Thánh đức thần công” của vua Minh Mạng
ca ngợi vua cha, được chạm khắc tinh tế và sắc sảo.
-
Lăng lận cận
Men theo các lối
đi giữa những đám cỏ và hoa rừng, du khách thả bước dưới bóng thông tươi mát để
sang thăm các lăng phụ cận. Đáng lưu ý nhất là lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận
Thiên Cao Hoàng hậu, nằm trong một vị thế u tịch mà sâu lắng. Điện Gia Thành ở
đó cũng là một công trình kiến trúc được xây dựng theo mô thức của điện Minh
Thành, dùng để thờ người phụ nữ đã sinh ra vị vua có tài nhất của triều Nguyễn
- vua Minh Mạng.
Toàn bộ khu lăng
này là một quần sơn với 42 đồi núi lớn nhỏ có tên gọi riêng, trong đó Đại Thiên Thọ là ngọn lớn
nhất được chọn làm tiền án của lăng và được dùng để gọi tên chung cho cả quần
sơn này: Thiên Thọ Sơn. Tất cả đều
được quy hoạch trong khu vực quan phòng rộng hơn 28 km2, tạo thành một cảnh
quan hùng tráng chạy dài từ chân dãy Trường Sơn đến bờ Tả Trạch - một hợp lưu của
Hương Giang. Đích thân vua Gia Long đã thám sát, duyệt định vị trí, quy hoạch
và chỉ đạo công tác thiết kế cũng như giám sát tiến độ thi công. Sử cũ cho hay,
thầy Địa lý Lê Duy Thanh (con trai nhà
bác học Lê Quý Đôn) là người tìm được thế đất này, nơi mà theo ông “đã tập trung được mọi ảnh hưởng tốt lành tỏa
ra từ nhiều núi đồi bao quanh”, nơi mà “ảnh hưởng tốt lành sẽ còn mãi mãi trong suốt 10 ngàn năm” .