-
Giới thiệu tổng
quát
Lăng Tự Ðức hay
Khiêm Lăng tọa lạc tại xã Thủy Biều, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Lăng được xây dựng vào năm 1864 và hoàn thành vào năm 1867 trên diện tích
475ha. Khác với các lăng được xây dựng cân đối, lăng Tự Đức được xây dựng phóng
khoáng, hài hoà với thiên nhiên có sẵn phản ánh tâm hồn lãng mãn của vị vua thi
sĩ này.
Lăng Tự Đức là một quần thể công
trình kiến trúc,
trong đó có nơi chôn cất vua
Tự Đức
tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh,
nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng,
lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau
cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng. Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và
là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.
- Tiểu sử vua Tự Đức
Vua Tự Đức tên
húy là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm,
ngoài ra còn có tên là Nguyễn Phúc Thì
. Ông là con thứ hai của vua Thiệu Trị và bà quí phi Phạm Thị Hằng, sinh
ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu, tức 22 tháng 9 năm 1829. Vua Tự Đức lên ngôi tháng 10 năm Đinh Mùi,
1847, theo di chiếu của vua Thiệu Trị.
Vì Tự Đức là con
thứ hai của vua Thiệu Trị, nên việc truyền ngôi cho ông đã gây nên một bi kịch
trong hoàng tộc. Anh trai của Tự Đức là Hồng Bảo,
tuy lớn hơn nhưng lại là con vợ thứ, bị vua Thiệu Trị nhận định là người ít học,
ham chơi nên đã truyền lại ngôi cho Tự Đức.
Ngày Hồng Nhậm
lên ngôi, Hồng Bảo uất ức ngất đi ở giữa triều đường. Sau đó Hồng Bảo âm mưu
cùng một số người lấy lại ngai vàng. Hồng Bảo tung nhiều tin tức nói xấu Tự Đức,
người ta ngờ Tự Đức không phải là con vua Thiệu Trị, mà chính là con của Trương Đăng Quế được đánh tráo để họ Trương chiếm
ngai vàng. Âm mưu của Hồng Bảo bị bại lộ, Hồng Bảo bị hạ ngục và bị kết án tử
hình.
Tự Đức tha cho anh trai nhưng cho lệnh giam lại. Về sau Hồng Bảo thắt cổ tự tử
trong tù (có sách viết là bị ép uống thuốc độc) năm 1854. Cái chết của Hồng Bảo trở thành một
nghi án. Vua Tự Đức sợ sau này sử không chép đúng sự thật nên tự kể lại cuộc đời
của mình và cho khắc vào bia đá lớn. Ngày nay bia đá này vẫn còn ở trong lăng Tự Đức.Tự
Đức là một người ham học, hiểu biết nhiều và đặc biệt yêu thích thơ văn. Ông
làm nhiều thơ chữ Hán,
trong đó có bộ Việt sử tổng vịnh,
vịnh hàng trǎm nhân vật trong lịch sử Việt Nam.
Tự Đức làm cả thơ
chữ Nôm,
những tập như Luận Ngữ diễn ca,
Thập điều diễn ca. Có rất nhiều
giai thoại về Tự Đức, nhất là những chuyện ông giao thiệp với các nhà vǎn, các
học giả đương thời. Ông rất thích lịch sử,
đã chỉ đạo cho Quốc sử quán soạn bộ sử lớn Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, trong đó tự ông ghi nhiều
lời bình luận.
Tự Đức rất yêu
nghệ thuật, đã tập trung về kinh đô Huế nhiều người soạn kịch bản tuồng, và cho soạn những vở
tuồng lớn như Vạn bửu trình tường,
Quần phương hiến thụy. Tự Đức
được người đời ca ngợi là ông vua có hiếu. Dù làm vua, ông luôn luôn kính cẩn,
vâng lời mẹ dạy. Ông ghi chép các lời rǎn của mẹ vào một cuốn sách đặt tên là cuốn
Từ huấn lục. Thậm chí khi thấy
mình phạm tội, ông còn nằm ra, đặt roi trên chiếc mâm son để chờ bà Từ Dũ trừng
phạt.
Tự Đức cũng được
đánh giá là một vua tốt, chăm chỉ xem xét mọi việc triều chính không hề trễ nải,
và được các quan trong triều nể phục.
Tự Đức còn là ông
vua nhu nhược, hèn nhát. Ông là người chịu trách nhiệm chính trong việc để mất
Nam kì Lục tỉnh, Bắc kì dẫn đến mất cả nước về tay Thực dân Pháp sau này. Quân Pháp đến
đến lúc đánh lúc hàng, gặp việc không quả quyết, lại nghe lời phái chủ hòa nên
nhiều lần ra lệnh quan quân thoái lui.
Tự Đức lên làm
vua trong một hoàn cảnh đất nước khó khăn và phức tạp. Thiên tai liên tiếp: hạn hán, bão lụt, nạn châu chấu
phá hoại mùa màng. Sau sự việc Hồng Bảo đã xảy ra vụ loạn Chày Vôi.
Đoàn Hữu Trưng là rể của Tùng Thiện vương (tức là em rể họ của Tự Đức)
đã nổi lên gây cuộc binh biến nhằm lập Hoàng tôn Ưng Đạo, con của Hồng Bảo lên
ngôi. Tự Đức suýt bị giết và sau khi dập tắt cuộc bạo loạn, ông đã cho xử tử cả
nhóm Đoàn Trưng và mẹ con Ưng Đạo (là chị dâu và cháu của ông).
Sau đó trong nước
còn xảy ra nhiều vụ loạn lạc khác. Phía Bắc, có cuộc nổi lên của Lê Duy Cự và Cao Bá Quát.
Nhóm khởi nghĩa cùng lúc có nạn châu chấu phát sinh phá hoại mùa màng, nên người
ta cũng gọi là giặc châu chấu. Tiếp theo
đến giặc Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng, gọi chung là giặc Tam Đường. Triều đình
đã phải rất vất vả mới dẹp được.
- Quá trình xây lăng
Tự Đức đã sớm
nghĩ đến việc xây lăng mộ cho mình ngay khi còn sống. Vốn là một người giỏi thi
phú, ông đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, địa
điểm được chọn để xây lăng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng,
tổng Cư Chánh.
Khi mới khởi công
xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình, với mong muốn
được trường tồn. Tuy nhiên, do công việc xây lăng quá cực khổ, lại bị quan lại
đánh đập tàn nhẫn , là nguồn gốc cuộc nổi loạn Chày Vôi của dân phu xây lăng.
Ngày 8-9 âm lịch
năm Bính Dần
(1866), tức năm Tự Đức thứ 19, do việc xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu
phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Nhân sự bất mãn đó, với lý do
tôn phù Đinh Đạo (cháu ruột Tự Đức, nguyên tên là Ưng Đạo, do cha là An Phong
công Hồng Bảo làm loạn nên phải đổi thành Đinh Đạo) lên ngôi vua, Đoàn Hữu Trưng cùng với các em là Đoàn Hữu Ái,
Đoàn Tư Trực, cùng các đồng chí là Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc,
Tôn Thất Giác, Bùi Văn Liệu, Nguyễn Văn Quí phát động khởi nghĩa. Những người
tham gia khởi nghĩa phần đông là nhân công đang uất hận vì bị bắt lao dịch khắc
nghiệt để xây dựng Vạn niên cơ. Họ dùng chầy vôi - dụng cụ lao động - làm võ
khí nên tục gọi là "giặc chày vôi". Tuy nhiên, cuộc đảo chính thất bại.
Cả nhà Ưng Đạo đều bị hại. Đoàn Hữu Trưng và hai người em bị giết lúc mới 22 tuổi.
Tuy nhiên, do sự
việc này, vua phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung và viết bài biểu trần
tình để tạ tội. Năm 1873, Khiêm Cung mới được hoàn thành, vua Tự Đức vẫn sống
thêm 10 năm nữa rồi mới mất.
-
Toàn cảnh lăng
Trong vòng La
thành rộng khoảng 12ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành cụm
trên những thế đất phức tạp cao thấp hơn nhau chừng 10m. Nhưng, các hệ thống bậc
cấp lát đá thanh, các lối đi quanh co lát gạch Bát Tràng đã nối tất cả các công
trình kiến trúc lại thành một thể thống nhất, tương quan, gần gũi.
Qua khỏi Khiêm Cung Môn, cửa tam quan hai tầng dựng trên một thế đất cao, người
ta bước vào một hệ thống cung điện gồm vài chục tòa nhà lớn nhỏ và các công
trình kiến trúc phụ thuộc.
Tòa ngang dãy dọc nơi đây đã được dành cho vua và đoàn cung nữ tùy tùng thỉnh
thoảng lên ở lại vui chơi. Minh Khiêm Ðường - nhà hát cổ xưa và mang giá trị
nghệ thuật kiến trúc trang trí. Ðiện Hòa Khiêm - nơi thờ đế và hậu, hiện còn chứa
nhiều đồ ngự dụng và các tác phẩm mỹ thuật đương thời.
Nếu nhà cửa ở Khiêm Cung đều làm bằng gỗ thì tất cả các công trình kiến trúc ở
khu vực lăng mộ bên kia đều được xây bằng gạch, đá. Ðáng để ý nhất là tấm bia lớn
nhất Việt Nam cao chừng 5m, được bảo vệ bằng một tòa nhà đồ sộ kiên cố với cột
to, vách dày và xây cửa cuốn. Các nhà kiến trúc đã cho xây Bi đình bằng vật liệu
và kiểu thức như vậy là dùng để chống chọi với thời gian. Trên ngọn đồi nằm bên
kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trì là Bửu Thành xây bằng gạch và chính giữa có
ngôi nhà nhỏ xây bằng đá thanh, nơi vua yên nghỉ. Bửu thành được bao phủ bởi một
rừng thông xanh ngắt, reo vi vu suốt bốn mùa.
Ngoài ra, hệ thống tháo thoát trong toàn lăng tẩm đã được thiết kế, xây dựng một
trình độ cao, và lưu thông rất tốt. Nhìn chung, mỗi công trình kiến trúc trong
lăng Tự Ðức đều mang một đường nét khác nhau về nghệ thuật tạo hình: không
trùng lặp và rất sinh động. Cách phân bố các khu vực và bố cục các công trình
kiến trúc trong từng khu vực ở lăng Tự Ðức đã phá bỏ hệ thông lệ giữ gìn sự đối
xứng từng cổ điển ở một số lăng khác. Tại đây còn có những lối đi uốn lượn mềm
mại theo thế đất tự nhiên hoặc do bàn tay con người tạo dáng. Ðường nét kiến
trúc thật phóng khoáng, hài hòa thiên nhiên có sẵn, hoặc cải tạo lại cho phù hợp
với nghệ thuật kiến trúc phong cảnh.
Nếu phá vỡ sự đối xứng cũng là một nét đẹp trong nghệ thuật thì lăng Tự Ðức có
thêm nét đẹp đó. Kiến trúc và thiên nhiên ở đây gây được nhiều cảm xúc thẩm mỹ
mới lạ cho người đến tham quan, và phản ánh được tâm hồn lãng mạn trữ tình của
một ông vua thi sĩ.
Lăng Tự Ðức là một bài thơ tuyệt tác, một bức tranh sơn thủy hữu tình, gợi cho
du khách một "hồn êm thơ mộng".